Bước tới nội dung

Thành viên:Doãn Hiệu

Tủ sách mở Wikibooks

Thành viên:Ngokhong 93-2013/KHXD

Hướng dẫn đồ án tổ chức thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối/Lập kế hoạch thời gian (tiến độ) và kế hoạch nguồn lực

Lập danh mục công việc cho dự án thi công phần thân nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối.
Tiến độ của dự án xây dựng nhà nhiều tầng lập theo phương pháp tổ chức thực hiện công việc theo gói công việc.
Cơ cấu phân chia công việc (WBS) cho một dự án xây dựng phần thân nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối dược lấy làm ví dụ cho đồ án Tổ chức thi công.
Một bản mẫu đồ án Tổ chức thi công.
Cách tính sơ đồ mạng nút quan hệ PDM.

Mở đầu

[sửa]

Phương pháp tổ chức theo dây chuyền truyền thống (đã được viết trong các giáo trình tổ chức xây dựng ở Việt Nam) hiện không gắn kết với các cách thể hiện tiến độ hiện đại như phần mềm quản lý Microsoft Project, hay phần mềm Primavera, những phần mềm dựa trên căn bản là sơ đồ mạng đường găng theo quan hệ PDM (Precedence Diagram Method). Điều này thường làm các bản tiến độ của phương pháp tổ chức theo dây chuyền (thể hiện trên sơ đồ xiên) thường bị sơ cứng khó điều chỉnh (Tracking and Leveling Resource) và kiểm soát (Schedule Control) trong quá trình thực hiện. Các dự án xây dựng ngoài cách tổ chức theo phương pháp dây chuyền (là phương pháp tổ chức thực hiện công việc, quan tâm nhiều tới tính chuyên môn của tổ đội, tính cố định biên chế tổ đội, và tính hoạt động liên tục theo thời gian của tổ đội chuyên môn) chúng còn được tổ chức theo một cách thức khác, mà cách thức tổ chức này gắn liền với lý thuyết quản lý dự án, lại không theo lý thuyết tổ chức thực hiện công việc theo dây chuyền (không chú trọng đến tính chuyên môn và tính cố định biên chế của tổ đội nhân vật lực thực hiện). Cần thiết phải nghiên cứu và xây dựng định nghĩa nhóm phương pháp tổ chức mới (nằm ngoài các phương pháp tổ chức truyền thống: là tổ chức theo dây chuyền, tổ chức tuần tự, tổ chức song song) này. Cách thể hiện tiến độ bằng sơ đồ mạng đường găng mũi tên công việc (ADM) vẫn đang được dùng phổ biến trong các giáo trình tổ chức xây dựng hiện hành, mặc dù có thể làm cho tiến độ có thể được điều chỉnh linh hoạt nhờ điều chỉnh dự trữ công việc và đường găng, nhưng do chỉ dựa trên một mối quan hệ giữa các công việc là quan hệ tuần tự thuận (kết thúc-bắt đầu, FS), và phải dùng đến các công việc ảo (Dummy Activity) hay công tác ảo (Dummy Task) để thể hiện tất cả các kiểu mối quan hệ trong thực tế khác với kiểu mối quan hệ tuần tự thuận FS, dẫn đến tiến độ thể hiện dưới dạng này rất cồng kềnh và đồ sộ không thể thể hiện được cho những dự án vừa và lớn. Hiện sơ đồ mạng đường găng theo quan hệ PDM (Precedence Diagram Method), đang được dùng làm cơ sở cho các phần mềm Microsoft Project, hay Primavera, khắc phục được nhược điểm này của sơ đồ mạng đường găng mũi tên công việc (ADM), nhưng lại chưa được đưa vào giáo trình Tổ chức xây dựng.

Chương I: Giới thiệu phương pháp sơ đồ mạng nút quan hệ PDM

[sửa]

Sơ đồ mạng là một trong những phương pháp thể hiện tiến độ. Phương pháp Sơ đồ mạng theo quan hệ PDM (tiếng Anh: Precedence Diagram Method), hay Sơ đồ mạng PDM, Sơ đồ mạng nút PDM hoặc Phương pháp Sơ đồ mạng quan hệ, là một công cụ để lập phần kế hoạch tiến độ của bản kế hoạch dự án. Nó là một phương pháp xây dựng bản tiến độ dự án sơ đồ mạng theo phương pháp Đường găng (CPM), mà các phần tử chính là các hộp thông tin công việc, được gọi là các nút công việc, để đại diện cho các công việc (hay công tác) và kết nối chúng với nhau bằng những mũi tên để thể hiện sự phụ thuộc giữa các công việc liền trước hay kế tiếp với nhau.

1.Thành phần cấu tạo của một sơ đồ mạng PDM

[sửa]

1.1.Cấu trúc cơ bản nhất của một nút công việc

[sửa]

Một hộp thông tin công việc hay một nút công việc trong sơ đồ mạng PDM, tối thiểu phải bao gồm các thông số công việc sau: chỉ số định danh công việc, chỉ số ID, cũng chính là thứ tự khai báo các công việc theo một danh mục phân chia công việc có tính logic của việc thực hiện chúng (danh mục đó được gọi là Cơ cấu phân chia công việc (WBS)). Thời lượng công việc (duration), hay thời lượng, ký hiệu là T, là thời gian cần thiết để thực hiện mỗi công việc (hay công tác). Thời điểm khởi sớm (còn gọi là ngày khởi công sớm, hay ngày bắt đầu sớm, (vì đơn vị phổ thông của lịch tiến độ là ngày)), ký hiệu là BS, là thời điểm sớm nhất có thể để bắt đầu (khởi công) một công tác (hay công việc). Thời điểm khởi muộn (còn gọi là ngày khởi muộn), ký hiệu là BM, là thời điểm muộn nhất (hay trễ nhất) có thể để bắt đầu một công việc (hay công tác). Thời điểm kết sớm hay thời điểm hoàn thành sớm (còn gọi là ngày kết sớm), ký hiệu là KS, là thời điểm hoàn thành (tức là kết thúc việc thực hiện) sớm nhất có thể của một công việc (hay công tác). KS = BS + T. Thời điểm kết muộn hay thời điểm hoàn thành muộn (còn gọi là ngày kết muộn), ký hiệu là KM, là thời điểm hoàn thành muộn nhất (hay trễ nhất) có thể của một công việc (hay công tác). KM = BM + T. Các thông số sự kiện: Thời điểm khởi sớm BS và Thời điểm kết sớm KS, có sự liên hệ chặt chẽ với nhau qua thời gian công việc T, nên được xếp chung là Hạn sớm của công việc. Các thông số sự kiện: Thời điểm khởi muộn BM và Thời điểm kết muộn KM, có sự liên hệ chặt chẽ với nhau qua thời gian công việc T, nên được xếp chung là Hạn muộn của công việc.

1.2.Các kiểu liên hệ phụ thuộc giữa các công việc liền trước (hay kế sau) với nhau

[sửa]

Có tất cả 4 kiểu mối quan hệ giữa các công việc trong sơ đồ mạng PDM, đó cũng chính là 4 dạng mũi tên liên hệ giữa các công việc:

Hình 1.1. Quan hệ SS

Liên hệ SS (hay quan hệ SS), (Start to Start), bắt đầu tới bắt đầu, là mối liên hệ mà thời điểm khởi sớm của công việc liền trước liên quan (quyết định) tới thời điểm khởi sớm của công việc kề sau, và thời điểm khởi muộn của công việc kề sau liên quan tới thời điểm khởi muộn của công việc liền trước, với một độ trễ thời gian nhất định. Tóm lại, theo kiểu liên hệ này thì việc bắt đầu của công việc liền trước liên quan trực tiếp với việc bắt đầu của công việc liền sau. Đây là mối liên hệ mang tính chất tổ chức thực hiện song song (toàn bộ hay một phần (tức tổ chức thực hiện (hay tổ chức thi công) theo phương pháp dây chuyền)) giữa hai công việc liền trước và liền sau. Đây là một trong hai kiểu liên hệ song song phổ biến.

Hình 1.2. Quan hệ FF

Liên hệ FF (hay quan hệ FF), (Finish to Finish), kết thúc tới kết thúc, là mối liên hệ mà thời điểm kết sớm của công việc liền trước liên quan (quyết định) tới thời điểm kết sớm của công việc kề sau, và thời điểm kết muộn của công việc kề sau liên quan tới thời điểm kết muộn của công việc liền trước, với một độ trễ thời gian nhất định. Tóm lại, theo kiểu liên hệ này thì việc kết thúc của công việc liền trước liên quan trực tiếp với việc kết thúc của công việc liền sau. Đây là mối liên hệ mang tính chất tổ chức thực hiện song song (hay tổ chức thi công song song, một cách toàn bộ hay một phần (tức tổ chức thực hiện theo phương pháp dây chuyền)) giữa hai công việc liền trước và liền sau. Đây là một trong hai kiểu liên hệ song song phổ biến.

Hình 1.3. Quan hệ FS

Liên hệ FS (hay quan hệ FS), (Finish to Start), kết thúc tới bắt đầu, là mối liên hệ mà thời điểm kết sớm của công việc liền trước liên quan (quyết định) tới thời điểm khởi sớm của công việc kề sau, và thời điểm khởi muộn của công việc kề sau liên quan tới thời điểm kết muộn của công việc liền trước, với một độ trễ thời gian nhất định. Tóm lại, theo kiểu liên hệ này thì việc kết thúc của công việc liền trước liên quan trực tiếp với việc bắt đầu của công việc liền sau. Đây là mối liên hệ mang tính chất tổ chức thực hiện tuần tự giữa hai công việc liền trước và liền sau. Mối liên hệ này cũng là phổ biến nhất trong thực tế thực hiện dự án, và đây cũng là kiểu quan hệ giữa các công việc được đặt mặc định sẵn trong phần mềm Microsoft Project.

Hình 1.4. Quan hệ SF

Liên hệ SF (hay quan hệ SF), (Start to Finish), bắt đầu tới kết thúc, là mối liên hệ mà thời điểm khởi sớm của công việc liền trước liên quan (quyết định) tới thời điểm kết sớm của công việc kề sau, và thời điểm kết muộn của công việc kề sau liên quan tới thời điểm khởi muộn của công việc liền trước, với một độ trễ thời gian nhất định. Tóm lại, theo kiểu liên hệ này thì việc bắt đầu của công việc liền trước liên quan trực tiếp với việc kết thúc của công việc liền sau. Mối liên hệ này là hiếm gặp nhất trong thực tế thực hiện dự án (vì dự án thông thường chỉ được tổ chức thực hiện công việc theo phương pháp tổ chức gói công việc, chủ yếu là chỉ có kiểu mối quan hệ theo công nghệ mà không có kiểu mối quan hệ theo chuyên môn). Tuy nhiên, trong phương pháp tổ chức theo dây chuyền, mối liên hệ này là điều kiện rất tốt để thể hiện kiểu quan hệ liên tục theo chiều chuyên môn trong một dây chuyền đơn (tức công việc chuyên môn) có điểm ghép sát tới hạn với dây chuyền đơn phía trước, mà ở giữa hay cuối dây chuyền đơn đó. Các công tác của tổ chuyên môn trên các phân đoạn phía trước điểm ghép sát tới hạn sẽ chỉ nối liền với nhau thành dây chuyền khi mà chúng được khai báo bằng mối quan hệ SF+0 với công tác liền sau trên dây chuyền. Độ trễ (lag), là khoảng thời gian gián đoạn giữa các mốc bắt đầu hay kết thúc của hai công việc có liên quan với nhau. So sánh với phương pháp sơ đồ xiên thể hiện tiến độ, độ trễ quyết định các khoảng ghép sát của các công việc trước sau, tại các thời điểm bắt đầu và kết thúc của các công việc liền kề nhau. Độ trễ có thể có giá trị > 0, = 0, hay < 0 (trường hợp độ trễ < 0 được gọi là độ vượt sớm).

Hình 1.5. Chuyển đổi giữa sơ đồ mạng PDM và sơ đồ ngang Gant (Gantt chart) trong phần mềm Microsoft project 2003. Đường tiến độ ban đầu (base line), (nằm bên dưới) trong dạng sơ đồ ngang Gantt, thể hiện mọi công việc có kiểu ràng buộc "Sớm nhất có thể", và đường tiến độ điều chỉnh (tracking), (nằm bên trên) trong sơ đồ ngang, thể hiện mọi công việc theo kiểu "Muộn nhất có thể". Độ vênh giữa hai đường Base line và đường tracking của các công việc (công tác) không găng chính là dự trữ toàn phần của các công việc đó.

1.3.Các kiểu ràng buộc công việc trên trục thời gian

[sửa]

Ngoài quan hệ giữa các công việc với nhau, trong sơ đồ mạng PDM, cũng như sơ đồ mạng ADM, công việc còn cần phải được khai báo định vị trên trục thời gian bằng các mốc sự kiện của chúng. Trong sơ đồ mạng PDM, có 8 kiểu ràng buộc đối với công việc (tức là các mối gắn kết định vị công việc) trên trục thời gian (working time). Trong đó 2 kiểu gắn tự do và 6 kiểu gắn công việc với một mốc thời gian (công việc mốc) nào đó, đó là: Kiểu Sớm nhất có thể (As soon as possible), công việc được định vị trên trục thời gian theo thời điểm khởi sớm, tức là theo hạn sớm, hay có nghĩa là công việc được bắt đầu ngay vào thời điểm sớm nhất có thể mà không có ràng buộc gì nữa. Đây là kiểu tự nhiên nhất, phổ biến nhất, và là kiểu ràng buộc được mặc định ngay từ ban đầu trong sơ đồ mạng PDM cũng như phần mềm Microsoft Project. "Móc treo" của công việc là thời điểm khởi sớm, được "thả trôi nổi" trên trục thời gian tùy theo quá trình tính toán sơ đồ mạng PDM đó. Kiểu Muộn nhất có thể (As late as possible), công việc được định vị trên trục thời gian theo thời điểm khởi muộn, tức là theo hạn muộn, hay có nghĩa là công việc phải bị trì hoãn thời điểm bắt đầu càng lâu càng tốt. "Móc treo" của công việc là thời điểm khởi muộn, được "thả trôi nổi" trên trục thời gian tùy theo quá trình tính toán sơ đồ mạng PDM đó. Đây là kiểu phổ biến thứ 2 trong sơ đồ mạng PDM sau kiểu ràng buộc thứ nhất bên trên. Hai kiểu này chiếm toàn bộ các ràng buộc công việc trong sơ đồ mạng PDM thông thường, khi không đặt ra một mốc "neo" công việc trên trục thời gian nào. Kiểu Kết thúc không sớm hơn (Finish no earlier than), công việc được định vị trên trục thời gian theo thời điểm kết sớm vào một mốc thời gian (công việc mốc). Kiểu Kết thúc không muộn hơn (Finish no later than), công việc được định vị trên trục thời gian theo thời điểm kết muộn vào một mốc thời gian (công việc mốc). Kiểu Bắt đầu không sớm hơn (Start no earlier than), công việc được định vị trên trục thời gian theo thời điểm khởi sớm vào một mốc thời gian (công việc mốc). Kiểu Bắt đầu không muộn hơn (Start no later than), công việc được định vị trên trục thời gian theo thời điểm khởi muộn vào một mốc thời gian (công việc mốc). Kiểu Kết thúc đúng vào (Must Finish on), công việc được định vị trên trục thời gian theo thời điểm kết sớm và thời điểm kết muộn đúng vào một mốc thời gian (công việc mốc). Kiểu Bắt đầu đúng vào (Must Start on), công việc được định vị trên trục thời gian theo thời điểm khởi sớm và thời điểm khởi muộn đúng vào một mốc thời gian (công việc mốc).

2.Lý thuyết tính toán sơ đồ mạng PDM

[sửa]
Hình 1.6. Cách tính sơ đồ mạng nút quan hệ PDM.

Sơ đồ mạng quan hệ PDM là một loại sơ đồ mạng đường găng. Nên cũng gống như sơ đồ mạng theo phương pháp Đường găng khác là sơ đồ mạng mũi tên công việc ADM (Arrow Diagramming Method), để tính được hết các thông số sự kiện của công việc, sơ đồ mạng PDM cũng được tính toán với hai lượt: lượt đi (tính toán các thời hạn sớm (hạn sớm)) và lượt về (tính toán các thời hạn muộn (hạn muộn)).

2.1.Tính lượt đi với hạn sớm

[sửa]

Mỗi loại công việc liền trước g quan hệ với công việc i liền sau theo quan hệ FS. Với LgiFS là độ trễ giữa hai công việc g và i. Mỗi loại công việc liền trước h quan hệ với công việc i liền sau theo quan hệ SS. Với LhiSS là độ trễ giữa hai công việc h và i. Mỗi loại công việc liền trước k quan hệ với công việc i liền sau theo quan hệ FF. Với LkiFF là độ trễ giữa hai công việc k và i. Mỗi loại công việc liền trước j quan hệ với công việc i liền sau theo quan hệ SF. Với LjiSF là độ trễ giữa hai công việc j và i.

BSi = max{(BSg + Tg + LgiFS), (BSh + LhiSS), (BSk + Tk + LkiFF – Ti), (BSj + LjiSF - Ti)} = max{(KSg + LgiFS), (BSh + LhiSS), (KSk + LkiFF – Ti), (BSj + LjiSF - Ti)}
KSi = BSi + Ti = max{(KSg + LgiFS + Ti), (BSh + LhiSS + Ti), (KSk + LkiFF), (BSj + LjiSF)}

Với mọi loại công việc g, h, k, j liền trước công việc i. (Các mũi tên quan hệ giữa công việc i với mọi công việc g, h, k, j là tất cả, đều hướng về công việc i.)

2.2.Tính lượt về với hạn muộn

[sửa]

Mỗi loại công việc liền sau p quan hệ với công việc i liền trước theo quan hệ FS. Với LipFS là độ trễ giữa hai công việc i và p. Mỗi loại công việc liền sau q quan hệ với công việc i liền trước theo quan hệ SS. Với LiqSS là độ trễ giữa hai công việc i và q. Mỗi loại công việc liền sau m quan hệ với công việc i liền trước theo quan hệ FF. Với LimFF là độ trễ giữa hai công việc i và m. Mỗi loại công việc liền sau n quan hệ với công việc i liền trước theo quan hệ SF. Với LinSF là độ trễ giữa hai công việc i và n.

BMi = min{(BMp – LipFS – Ti), (BMq – LiqSS), (BMm + Tm – LimFF – Ti), (BMn + Tn - LinSF)} = min{(BMp - LipFS – Ti), (BMq - LiqSS), (KMm – LimFF – Ti), (KMn - LinSF)}
KMi = BMi + Ti = min{(BMp - LipFS), (BMq - LiqSS + Ti), (KMm – LimFF), (KMn - LinSF + Ti)}

Với mọi loại công việc p, q, m, n liền sau công việc i. (Các mũi tên quan hệ giữa công việc i với mọi công việc p, q, m, n là tất cả, đều hướng ra khỏi công việc i.)

3.Đường găng trong sơ đồ mạng PDM

[sửa]
Hình 1.7. Dự trữ công việc trong sơ đồ mạng PDM và sơ đồ mạng ADM.

Đường găng (critical path) là đường xuyên mạng đi từ thời điểm khởi công dự án tới thời điểm kết thúc dự án có tức là tổng thời lượng thực hiện của các công việc (duration) thuộc đường này là lớn nhất, qua các công việc (công tác (task)) có dự trữ toàn phần bằng 0 gọi là các công việc găng (critical task). Dự trữ thời gian công việc (float), hay còn gọi là dự trữ toàn phần (total float), là khoảng thời gian dư thừa (nếu có), ngoài thời lượng thực hiện công việc (Duration), nằm giữa thời điểm bắt đầu sớm nhất có thể và thời điểm kết thúc muộn nhất có thể của mỗi công việc (công tác), mà cho phép công việc có thể trì hoãn thời điểm bắt đầu hay kéo dài thời lượng thực hiện công việc mà không làm thay đổi hai thời hạn trên của công việc, và do đó không ảnh hưởng đến thời điểm kết thúc của toàn dự án. Dự trữ chính là khoảng thời gian để công việc có thể "trôi nổi" bên trong hai mốc giới hạn thời gian là: Thời điểm khởi sớm nhất có thể và thời điểm kết muộn nhất có thể của công việc. Giữa hai thời điểm bắt đầu sớm nhất có thể và thời điểm kết thúc muộn nhất có thể của mỗi công việc (công tác) găng chỉ, thì thời lượng công tác đã chiếm hết và không còn lượng dự trữ nào nữa. Dự trữ toàn phần trong sơ đồ mạng PDM được tính bằng: DTij = KMij - KSij = BMij - BSij.

Hình 1.8. Một bản tiến độ ví dụ của phần thân nhà nhiều tầng thể hiện bằng sơ đồ mạng PDM.

Trong sơ đồ mạng nút PDM (cũng như mạng nút khác), do các thông số sự kiện khởi-kết được đưa về tới từng công việc (không còn dự trữ sự kiện chung của một nhóm công việc quanh mỗi sự kiện nữa), nên không xác định tách biệt được các dự trữ thời gian thành phần của công việc: dự trữ tự do, dự trữ độc lập, dự trữ riêng. Mà chỉ xác định được các dự trữ toàn phần theo công thức xác định ở trên cho mỗi công việc (task). Các công việc không găng (tức là có dự trữ) mà nằm ở đầu mỗi nhánh đường xuyên mạng thì sẽ có dự trữ toàn phần lớn nhất gồm dự trữ riêng của nó và cả phần dự trữ tự do của tất cả các công việc phía sau thuộc nhánh đường xuyên mạng đó. Mọi công việc không găng nằm ở cuối nhánh đường xuyên mạng có dự trữ toàn phần chỉ là phần dự trữ riêng của chính nó. Sơ đồ mạng nút quan hệ PDM có ưu điểm vượt trội hơn hẳn sơ đồ mạng mũi tên công việc ADM (loại sơ đồ mạng đường găng truyền thống) ở những điểm sau. Thứ nhất, nó có đầy đủ mọi loại mối quan hệ công việc theo thời điểm khởi kết, tồn tại trong tiến độ thực tế, mà gồm 4 kiểu được chia thành 2 nhóm song song (cái mà sơ đồ mạng ADM không có) và tuần tự. Trong khi, sơ đồ mạng ADM chỉ có thể thể hiện theo kiểu mối quan hệ tuần tự thuận và không có độ trễ (kết thúc-bắt đầu ngay), và phải dùng đến công tác (công việc) ảo để tìm cách thể hiện các dạng mối quan hệ công việc song song, làm cho sơ đồ mạng Mũi tên công việc ADM rất cồng kềnh và phức tạp. Mặt khác, số lượng công tác trong sơ đồ mạng ADM còn bị nhiều lên bởi phải dung các công việc chờ để biểu diễn các gián đoạn kỹ thuật, cái mà được sơ đồ mạng quan hệ PDM giải quyết bằng độ trễ một cách gọn gàng trong quá trình tính toán mà không chiếm nhiều không gian thể hiện sơ đồ. Thứ hai, sơ đồ mạng mũi tên công việc dùng mũi tên làm phần tử chính để thể hiện công việc, gây ra việc bắt buộc chúng không được giao cắt. Việc lập sơ đồ mạng mũi tên công việc là cả vấn đề phức tạp cần phải có gần chục quy tắc lập phức tạp, trong khi việc lập sơ đồ mạng nút quan hệ PDM rất đơn giản chỉ với 4 kiểu mũi tên quan hệ xác định và không cần quy tắc lập ngoài trình tự quan hệ liền trước (predecessors) hoặc quan hệ liền sau (successors) được xác định trong bảng Cơ cấu phân chia công việc WBS. Vấn đề xác định trình tự quan hệ liền trước hay sau không nằm ở sơ đồ mạng PDM, mà nằm ở khâu xác định cơ cấu phân chia công việc. Nhược điểm duy nhất của PDM so với ADM, là việc tính toán có vẻ phức tạp hơn, do có 4 kiểu mối quan hệ thay vì một kiểu duy nhất của sơ đồ mạng mũi tên công việc, làm công thức tính sơ đồ mạng PDM cồng kềnh, nhưng khối lượng tính toán cho từng phần tử công việc cũng chẳng vì thế mà nhiều lên. Mặt khác, việc tính toán sơ đồ mạng PDM được chuyển cho các chương trình phần mềm tính toán trên máy vi tính (Mcrosoft Project, Primavera), nên không là vấn đề lớn nữa. Sơ đồ mạng nút quan hệ PDM cũng ưu việt hơn sơ đồ mạng nút cổ điển là sơ đồ mạng nút MPM (Metra potential method), phương pháp sơ đồ mạng đường găng của người Pháp, mà đã được giới thiệu về cấu tạo và thuật giải trong các cuốn Các phương pháp sơ đồ mạng trong xây dựng và Tổ chức xây dựng 1-Lập kế hoạch, tổ chức và chỉ đạo thi công. Trong sơ đồ mạng nút quan hệ, giữa một cặp hai nút công việc chỉ có một kiểu mối quan hệ duy nhất trong 4 kiểu mối quan hệ công việc, thay vì có thể có hai quan hệ ngược chiều nhau giữa hai nút công việc của sơ đồ mạng nút MPM. Và do có vừa đủ số mối quan hệ phù hợp với thực tế nên việc tính toán sơ đồ mạng quan hệ PDM không bị chia làm nhiều trường hợp phức tạp như việc tính toán sơ đồ mạng MPM (được đưa ra trong cuốn Tổ chức xây dựng 1).

Chương II: Tổng quan về các phương pháp tổ chức thực hiện công việc

[sửa]

Phương pháp tổ chức thực hiện công việc, gọi chính xác là các phương pháp tổ chức thực hiện công việc (trong quản lý dự án), trong sản xuất gọi là các phương pháp tổ chức sản xuất (dự án sản xuất), trong sản xuất xây dựng hay dự án thầu khoán xây dựng gọi là các phương pháp tổ chức thi công (tức là các phương pháp tổ chức thực thi công việc tại công trường). Các phương pháp tổ chức thực hiện công việc là các phương pháp bố trí sắp xếp việc thực hiện các công việc trong một dự án (chính trị xã hội, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp, đầu tư xây dựng) hay một nhà máy sản xuất công nghiệp, theo thời gian và không gian thực hiện và bằng những nguồn tài nguyên đầu vào, nhằm đạt mục đích của dự án (đối với sản xuất là ra được sản phẩm đem lại lợi nhuận,...). Các phương pháp tổ chức thực hiện công việc thực chất các phương pháp được áp dụng vào hai khâu của quá trình quản lý là: lập kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch (không bao gồm khâu theo theo dõi kiểm tra kế hoạch), nhưng là những phương pháp tác động đồng bộ vào 2 loại kế hoạch là kế hoạch thời gian (tức tiến độ) và kế hoạch nguồn lực trong quản lý dự án và quản lý sản xuất. Thực chất, các phương pháp tổ chức thực hiện công việc chính là các phương pháp tổ chức cái Cơ cấu phân chia công việc (WBS). Các phương pháp tổ chức thi công sẽ làm rõ một dự án xây dựng cần phải phân chia chi tiết đến cấp độ công việc nào (hạng mục, tầng, đợt thi công, hay chi tiết đến từng công tác trên phân đoạn thi công)? Phương pháp tổ chức thi công theo dây chuyền truyền thống chia công việc đến cấp độ công việc hoạt động trên phân đoạn và chia theo chuyên môn thành các công tác chuyên môn. Đồng thời, cốt lõi nhất của các phương pháp tổ chức thi công để trả lời câu hỏi: Quan hệ giữa các công việc trong cơ cấu phân chia công việc nên được xác lập theo phương thức như thế nào?

1.Phân loại các mối quan hệ công việc

[sửa]

Phân loại chúng theo các cách khác nhau (theo thời điểm khởi kết của các công việc (FS, SF, FF, SS) và theo tính chất quan hệ công việc trong từng loại phương pháp tổ chức (các loại: quan hệ công việc theo chiều logic công nghệ, quan hệ công việc theo chiều chuyên môn hay quan hệ công việc theo tổ đội chuyên môn, quan hệ công việc theo điều kiện chuyển đợt chuyển tầng)).

1.1.Phân loại quan hệ công việc theo thời điểm khởi kết

[sửa]

Các phương pháp tổ chức thi công được phân biệt với nhau qua các mối quan hệ giữa các công việc. Các mối quan hệ công việc cho đến nay thường được phân loại theo điều kiện quy định thời điểm bắt đầu và kết thúc công việc, thành 4 kiểu mối quan hệ của 2 công việc liền trước và liền sau nhau, là: Kết thúc tới Bắt đầu (tức là tuần tự thuận, FS), Bắt đầu tới Bắt đầu (tức là song song cùng bắt đầu, SS), Kết thúc tới Kết thúc (tức là song song cùng về đích, FF), và Băt đầu tới Kết thúc (tức là tuần tự ngược, SF). Các mối quan hệ này đều kèm theo độ trễ L (Lag), (độ trễ có thể = 0 (ngay lập tức), > 0 (trễ)). Độ trễ có thể có giá trị âm (còn gọi là độ vượt trước (Lead)), tuy nhiên độ trễ âm phải đảm bảo phản ánh đúng điều kiện quan hệ công việc thông qua điểm ghép sát tới hạn của 2 công việc quan hệ, và trong trường hợp này luôn có thể và nên được chuyển đổi tương đương thành một trong 4 loại mối quan hệ công việc khác, với giá trị độ trễ là không âm, thông qua điểm ghép sát tới hạn của hai công việc, mà vẫn phản ánh được đúng điều kiện quan hệ của 2 công việc đó. Cách phân loại mối quan hệ công việc này chưa nêu được sự khác nhau về mặt tính chất của các mối quan hệ công việc trong các phương pháp tổ chức thi công. Chúng tôi đã xem xét và đưa ra cách phân loại mối quan hệ công việc trong các phương pháp tổ chức thi công theo tính chất quan hệ như sau.

1.2.Phân loại quan hệ công việc theo tính chất quan hệ

[sửa]
1.2.1.Quan hệ công việc theo chiều chuyên môn
[sửa]

Mối quan hệ công việc theo chuyên môn là mối quan hệ công việc trong mỗi tổ chuyên nghiệp có biên chế cố định. Với phương pháp tổ chức thi công theo dây chuyền thì trong cùng một dây chuyền đơn, các mối quan hệ công việc trên các phân đoạn liên tiếp bắt buộc phải là các kiểu quan hệ tuần tự bắt đầu ngay không có độ trễ (tức là chỉ có một trong hai loại mối quan hệ FS+0 (đối với những công tác nằm sau điểm ghép sát tới hạn với dây chuyền đơn phía trước) hoặc SF+0 (đối với những công tác nằm trước điểm ghép sát tới hạn với dây chuyền đơn phía trước), ở đây độ trễ (Lag) L = 0). Các mối quan hệ công việc tuần tự trong mỗi một dây chuyền đơn không thể chuyển đổi được thành các kiểu mối quan hệ song song, vì độ trễ của chúng L = 0 (để đảm bảo tính liên tục của dây chuyền đơn), và nếu có chuyển đổi thì mối quan hệ song song đó không phản ánh được tính chất tuần tự và liên tục của quan hệ công việc trong dây chuyền đơn. Nếu độ trễ của quan hệ theo chiều chuyên môn L ≠ 0, thì sẽ có gián đoạn tổ chức dây chuyền giữa các công tác cùng chuyên môn do một tổ chuyên nghiệp thực hiện. Khi đó phương pháp tổ chức dây chuyền sẽ chuyển thành phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp. Trong phương pháp tổ đội chuyên nghiệp có ở các công tác chuyên môn do một tổ chuyên nghiệp thực hiện, và thường là FS+0. Quan hệ theo chiều chuyên môn không có ở trong phương pháp tổ chức thực hiện công việc theo gói công việc (công việc trọn gói hay khoán gọn).

1.2.2.Quan hệ công việc theo chiều công nghệ
[sửa]

Mọi phương pháp tổ chức thực hiện công việc đều hàm chứa loại mối quan hệ theo chiều công nghệ. Trong phương pháp dây chuyền, quan hệ công việc giữa dây chuyền đơn liên tiếp thực hiện trên cùng một phân đoạn, cũng là các mối quan hệ tuần tự thuận (FS+L), chỉ khác là độ trễ L chính là điều kiện gián đoạn công nghệ, có thể bằng 0 khi không có điều kiện gián đoạn công nghệ, hoặc > 0 khi có điều kiện gián đoạn công nghệ (ví dụ như: điều kiện gián đoạn chờ khô lớp trát để sơn tại cùng một phân đoạn hoàn thiện, hay điều kiện gián đoạn tháo dỡ cốp pha khi không chất tải tại một phân đoạn bê tông dầm sàn). Có thể quy đổi quan hệ tuần tự giữa hai công tác thuộc 2 dây chuyền đơn liên tiếp hoạt động lần lượt trên cùng một phân đoạn về mối quan hệ song song cùng bắt đầu SS nhưng với độ trễ Lss = Lfs + DA, với DA là thời lượng thực hiện của dây chuyền đơn liền trước trên phân đoạn đang xét. Cũng tương tự về quan hệ song song cùng kết thúc FF với độ trễ Lff = Lfs + DB, với DB là thời lượng thực hiện của dây chuyền đơn liền sau trên phân đoạn đang xét. Tuy cùng là kiểu quan hệ tuần tự, nhưng tính chất của hai loại mối quan hệ tuần tự nêu trên là khác nhau hoàn toàn: tính chất của mối quan hệ tuần tự trong nội bộ một dây chuyền đơn là quan hệ công việc theo chuyên môn của một tổ chuyên môn với biên chế cố định làm việc tuần tự và liên tục từ phân đoạn này sang phân đoạn khác, còn tính chất của mối quan hệ tuần tự giữa 2 dây chuyền đơn liên tiếp thực hiện trên cùng một phân đoạn là quan hệ theo logic công nghệ của hai công tác (tức là công việc trên phân đoạn) khác nhau về chuyên môn nhưng nối tiếp nhau trong dây chuyền công nghệ (ví dụ như công tác cốp pha và công tác cốt thép trên một phân đoạn thi công bê tông sàn sườn toàn khối). Khi coi các dây chuyền đơn của một dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng hoạt động cùng trên một số lượng hữu hạn các phân đoạn (N phân đoạn) chỉ là một công việc chuyên môn hoạt động trên một phân đoạn lớn bằng tổng số các không gian phân đoạn gộp lại (tức là không chia phân đoạn nữa), thì mối quan hệ theo chiều công nghệ của hai công việc chuyên môn khác nhau (vốn là 2 dây chuyền đơn liền kề nhau) thực hiện trên không gian phân đoạn tổng, sẽ được quy đổi tương đương thành mối quan hệ song song cùng bắt đầu (SS + Lss) với độ trễ Lss có giá trị là gián đoạn tại bước vào của 2 dây chuyền đơn tương ứng với điểm ghép sát tới hạn, hoặc quy đổi tương đương thành mối quan hệ song song cùng kết thúc (FF + Lff) với độ trễ Lff có giá trị là gián đoạn tại bước ra của 2 dây chuyền đơn tương ứng với điểm ghép sát tới hạn.

Hình 2.1. Khai báo quan hệ công việc theo chiều công nghệ tại điểm ghép sát tới hạn giữa các dây chuyền đơn thành phần.

Trong các phương pháp tổ chức thực hiện công việc khác (gồm cả phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp lẫn phương pháp tổ chức theo gói công việc), quan hệ giữa các công tác chuyên môn khác nhau nằm trong quy trình công nghệ, theo đúng bản chất logic công nghệ cũng là kiểu quan hệ tuần tự thuận FS (có thể có hoặc không có độ trễ L là gián đoạn công nghệ trên không gian phân đoạn hay gói công việc), nhưng có thể chuyển đổi sang các kiểu quan hệ song song tương tự như trong phương pháp dây chuyền.

1.2.3.Quan hệ công việc theo điều kiện chuyển đợt
[sửa]

Trong xây dựng, đặc biệt là xây dựng nhà nhiều tầng, ta còn thấy một loại mối quan hệ công việc, có thể tồn tại trong tất cả các phương pháp tổ chức, mà loại mối quan hệ này liên quan đến điều kiện mở mặt bằng của các đợt thi công theo chiều cao. Ví dụ, mối quan hệ giữa công tác lắp đặt cốt thép trong phân đoạn đầu tiên của đợt thi công các kết cấu đứng (cột, tường) tầng trên với công tác đổ bê tông phân đoạn tương ứng bên dưới của đợt thi công các kết cấu nằm (dầm, sàn) tầng dưới theo điều kiện có mặt bằng (mở) và mặt bằng đủ cường độ để được phép thi công bên trên. Hay tương ứng với điều kiện tháo cốp pha chịu lực khi có chất tải do việc thi công các tầng trên, dẫn đến có một mối quan hệ công việc giữa việc tháo dỡ cốp pha chịu lực có (độ trễ đảm bảo) ở các phân đoạn tương ứng bên dưới các phân đoạn đang được đổ bê tông bên trên (theo điều 3.6.5.a và .b của TCVN 4453-1995 Khi tháo dỡ cốp pha ở các tấm sàn đổ bê tông toàn khối của nhà nhiều tầng nên thực hiện như sau: Giữ lại toàn bộ đà giáo và cột chống ở tấm sàn nằm kề dưới tấm sàn sắp đổ bê tông. Tháo dỡ từng bộ phận cột chống cốp pha của tấm sàn phía dưới nữa và giữ lại các cột chống “an toàn” cách nhau 3m dưới các dầm có nhịp lớn hơn 4m.). Loại mối quan hệ công việc theo điều kiện chuyển đợt chuyển tầng, khác với cả hai loại mối quan hệ công việc theo chuyên môn và theo công nghệ ở chỗ: loại mối quan hệ này lại liên kết chéo giữa hai công tác vừa khác nhau về chuyên môn vừa không cùng hoạt động trên một không gian phân đoạn chung (mà hoạt động ở không gian khác nhau về độ cao theo tầng hay đợt). Loại mối quan hệ này được biểu diễn chính xác bằng các kiểu mối quan hệ tuần tự (thuận FS hoặc nghịch SF) có thể có độ trễ là gián đoạn công nghệ chuyển đợt (ví dụ, thời gian để bê tông sàn đạt cường độ để thi công tiếp bên trên). Các công tác đặt điều kiện phải là công tác kết thúc, công tác bị đặt điều kiện phải là công tác bắt đầu, trong các kiểu quan hệ tuần tự này.

1.3.Phân loại các phương pháp tổ chức thực hiện công việc

[sửa]
Hình 2.2. So sánh các phương pháp tổ chức thi công.

Các giáo trình tổ chức xây dựng hiện hành như: cuốn Tổ chức thi công xây dựng (của Lê Hồng Thái), cuốn Tổ chức xây dựng 1-Lập kế hoạch, tổ chức và chỉ đạo thi công, đều đưa ra 3 phương pháp tổ chức là: phương pháp tổ chức tuần tự, phương pháp tổ chức song song, và phương pháp tổ chức dây chuyền. Hai phương pháp đầu là phương pháp tuần tự và phương pháp song song là hai phương pháp tổ chức sơ khai, mới chỉ là các phương pháp tổ chức kế hoạch tiến độ thuần túy, tức là bố trí sắp xếp các công việc trên trục thời gian, mà không xem xét tới tính chất nguồn lực thực hiện công việc (nguồn nhân vật lực chuyên nghiệp hạn chế hay không hạn chế, biên chế cố định hay thay đổi). Do đó, chúng chưa phải là những phương pháp tổ chức thực hiện công việc hoàn chỉnh. Với sự xuất hiện đầy đủ 4 kiểu mối quan hệ giữa các công việc trong tổ chức thực hiện, chúng tôi nhận thấy thực chất hai phương pháp tổ chức sơ khai này thuần túy chỉ là các mối quan hệ giữa các công việc về mặt thời gian (đó là các kiểu mối quan hệ tuần tự và các kiểu quan hệ song song). Một số tài liệu còn đưa ra phương pháp tổ chức so le (hay còn gọi là gối tiếp), nhưng thực chất cũng chỉ thuần túy là kiểu mối quan hệ song song với độ trễ L ≠ 0 mà thôi. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy lý thuyết quản lý dự án hiện đại thường lại tổ chức tiến độ không theo phương pháp tổ chức theo dây chuyền, mà thường tổ chức theo các gói công việc (Work package) có thể được thực hiện độc lập bởi các nhà thầu phụ khác nhau với nguồn nhân vật lực không phụ thuộc vào nhau và linh hoạt về biên chế tổ đội chuyên môn trong thực hiện công việc. Vậy thì đó có phải là một phương pháp tổ chức thực hiện công việc hay không? Qua nghiên cứu được trình bày dưới đây, chúng tôi đưa ra việc phân chia các phương pháp tổ chức thực hiện công việc (các phương pháp tổ chức thi công) thành các phương pháp sau: Phương pháp tổ chức theo dây chuyền, Phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp và Phương pháp tổ chức theo gói công việc.

Chương III: Phương pháp tổ chức theo dây chuyền

[sửa]

Phương pháp tổ chức theo dây chuyền là trường hợp riêng của phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp, mà trong nó các tổ đội chuyên nghiệp làm việc tuần tự và liên tục trên các không gian phân đoạn, tạo nên các chuỗi liên tục các công tác cùng chuyên môn gọi là dây chuyền đơn. Phương pháp tổ chức theo dây chuyền là phương pháp tổ chức theo các tổ đội chuyên môn (chuyên nghiệp) biên chế cố định hoạt động liên tục. Dây chuyền đơn vị chuyên môn, còn gọi là dây chuyền đơn, là một công việc chuyên môn được thực hiện bởi duy nhất một tổ biên chế cố định nhân lực hay vật lực (máy móc), liên tục và tuần tự trên các không gian phân đoạn của công trình xây dựng. Điều quan trọng trong định nghĩa này là, trong suốt quá trình thực hiện công việc chuyên môn của mình trên mọi không gian phân đoạn, tổ nhân vật lực chuyên nghiệp đó phải có biên chế cố định mà không bị thay đổi. Mỗi phân công việc chuyên môn được thực hiện trên một phân đoạn gọi là công tác hay công việc chuyên môn trên phân đoạn. Một dây chuyền đơn mà thời lượng thực hiện công tác chuyên môn trên mọi không gian phân đoạn mà nó hoạt động là như nhau thì được gọi là dây chuyền đơn đồng nhịp hay nhịp hằng. Khái niệm, sản phẩm của công việc chuyên môn trên phân đoạn (công tác) trong lý thuyết tổ chức sản xuất dây chuyền tương đương với khái niệm giao phẩm trong quản lý dự án. Theo logic công nghệ, trên một không gian phân đoạn các công việc chuyên môn được triền khai tuần tự nhau, nhưng có thể có hoặc không các gián đoạn công nghệ giữa chúng, gián đoạn này là khoảng thời gian chờ công nghệ của công tác chuyên môn trước và nằm ngay sau thời lượng thực hiện công tác đó. Dù có hoặc không có gián đoạn công nghệ trên mỗi không gian phân đoạn, nhưng nếu công tác chuyên môn sau bắt đầu tiến hành ngay sau kết thúc công tác trước hay gián đoạn công nghệ (nếu có) của công tác trước, thì hai công tác chuyên môn khác nhau đó vẫn được coi là thực hiện tuần tự và liên tục công nghệ trên không gian phân đoạn đó. Khi đó hai công tác chuyên môn đó được gọi là ghép sát tới hạn với nhau trên không gian phân đoạn đó. Hai dây chuyền đơn liên tiếp được gọi là ghép sát với nhau khi mà chúng hoạt động chung trên nhiều không gian phân đoạn (mỗi không gian phân đoạn hoạt động chung là một không gian phân đoạn có tuần tự cả 2 dây chuyền đó hoạt động trên nó theo logic công nghệ), trong các không gian phân đoạn chung của chúng có ít nhất một không gian phân đoạn chung mà trên đó công tác chuyên môn của hai dây chuyền ghép sát tới hạn với nhau. Trên các không gian phân đoạn chung còn lại không có sự ghép sát tới hạn, thì 2 công tác chuyên môn của 2 dây chuyền đơn này, được gọi là ghép sát với nhau trên không gian phân đoạn hoạt động chung. Và giữa chúng tồn tại thêm một gián đoạn thời gian trên phân đoạn chung ngoài gián đoạn công nghệ (nếu có) trên không gian phân đoạn đó, gọi là gián đoạn tổ chức. Khi và chỉ khi hai dây chuyền đơn ghép sát tới hạn với nhau trên mọi không gian phân đoạn chung theo logic công nghệ, mà vẫn đảm bảo tính liên tục trên mỗi dây chuyền đơn, thì hai dây chuyền đơn đó đồng điệu với nhau (thời lượng thực hiện công tác chuyên môn của hai dây chuyền đơn đó là bằng nhau trên từng không gian phân đoạn chung, đồng thời ghép sát tới hạn với nhau trên từng không gian phân đoạn chung đó). Một nhóm gồm từ hai dây chuyền đơn trở lên (nhiều dây chuyền đơn), được ghép sát tuần tự với nhau đầy đủ theo một logic công nghệ, thì được gọi là dây chuyền chuyên môn hóa. Trong dây chuyền chuyên môn hóa, mọi công việc chuyên môn đều phải tổ chức được thành các dây chuyền đơn. Dây chuyền chuyên môn hóa là một tiến độ hoàn chỉnh và thuần nhất theo phương pháp tổ chức dây chuyền. Dây chuyền chuyên môn hóa phát triển đầy đủ các công tác chuyên môn trong logic công nghệ, nên nó là đơn vị cơ bản nhất của phương pháp tổ chức dây chuyền. Mặc dù dây chuyền đơn là hạt nhân của phương pháp dây chuyền, nhưng một dây chuyền đơn riêng lẻ chỉ thuần túy theo một chuyên môn nhất định (với cùng một loại nguồn nhân vật lực chuyên nghiệp thực hiện cùng một loại hình công việc chuyên môn). Do chưa có đủ số lượng các công tác chuyên môn khác nhau trong logic công nghệ, nên dây chuyền đơn riêng lẻ chưa thể là một tiến độ hoàn chỉnh theo phương pháp dây chuyền. Việc tạo thành tiến độ theo phương pháp dây chuyền chỉ có được khi có đủ số lượng dây chuyền đơn theo logic công nghệ, ghép sát với nhau đúng theo tiến trình công nghệ, hợp lại thành một dây chuyền chuyên môn hóa. Do vậy, phương pháp tổ chức theo dây chuyền là phương pháp tổ chức tiến độ theo dây chuyền chuyên môn hóa với mọi công việc chuyên môn thành phần đều là các dây chuyền đơn vị chuyên môn (tức là tổ chuyên nghiệp thực hiện tuần tự và liên tục các công tác chuyên môn). Tuy nhiên, trong xây dựng, đặc biệt là xây dựng nhà nhiều tầng, tồn tại các mối quan hệ công việc theo điều kiện chuyển đợt chuyển tầng là nguyên nhân gây nên các gián đoạn tổ chức dây chuyền, nên rất khó có thể tổ chức thực hiện công việc thuần túy theo phương pháp tổ chức dây chuyền, mà thường chủ yếu tổ chức được theo phương pháp tổ đội chuyên nghiệp vì khó tổ chức được mọi dây chuyền đơn hoạt động liên tục. Dây chuyền chuyên môn hóa có mọi dây chuyền đơn đều là dây chuyền đơn đồng nhịp (nhịp hằng) và mọi dây chuyền đơn của nó đều đồng điệu với nhau thì gọi là dây chuyền chuyên môn hóa nhịp nhàng. Ngoài dây chuyền chuyên môn hóa nhịp nhàng, lý thuyết dây chuyền đã xem xét tới dây chuyền chuyên môn hóa nhịp bội là loại dây chuyền chuyên môn hóa đồng nhịp khác điệu (không đồng điệu) nhưng nhịp của các dây chuyền đơn thành phần là bội số của nhau, và dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng, là loại dây chuyền chuyên môn hóa khác điệu và đồng thời mọi dây chuyền đơn thành phần đều không đồng nhịp. Phương pháp tổ chức theo dây chuyền là một ma trận hai chiều các mối quan hệ công việc. Cũng giống như phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên môn, phương pháp bao trùm cả phương pháp dây chuyền, phương pháp tổ chức theo dây chuyền gồm có cả hai loại mối quan hệ công việc theo tính chất quan hệ là loại mối quan hệ theo chiều logic công nghệ và loại mối quan hệ theo chiều chuyên môn. Chúng tôi đã xem xét việc thể hiện các dây chuyền chuyên môn hóa bằng phương pháp sơ đồ mạng nút quan hệ PDM. Loại mối quan hệ theo chiều chuyên môn là loại mối quan hệ (theo chiều dọc) chỉ phát triển dọc theo mỗi một dây chuyền đơn, giữa các công tác cùng chuyên môn liên tiếp. Do tính chất hoạt động tuần tự trên các không gian phân đoạn của các công tác cùng chuyên môn trong dây chuyền đơn nên loại mối quan hệ theo chuyên môn chỉ có thể là một trong 2 kiểu quan hệ công việc tuần tự, (tuần tự thuận FS và tuần tự nghịch SF), không thể chuyển đổi được sang các kiểu quan hệ song song (quan hệ tuần tự bất chuyển). Thông thường quan hệ theo chiều chuyên môn được khai báo theo kiểu mối quan hệ tuần tự thuận (Kết thúc-Bắt đầu, FS). Đồng thời, do tính chất liên tục của dây chuyền đơn, phải đảm không có gián đoạn thời gian giữa 2 công tác cùng chuyên môn liên tiếp của một dây chuyền đơn (là loại gián đoạn dây chuyền hoạt động trên các không gian phân đoạn khác nhau), nên loại mối quan hệ theo chiều chuyên môn phải là những kiểu quan hệ công việc tuần tự liên tục, tức là chúng phải không có độ trễ (Lag, ký hiệu là L = 0). Loại mối quan hệ theo chiều công nghệ là loại mối quan hệ (theo chiều ngang với dây chuyền đơn) chỉ nhằm liên kết theo logic công nghệ giữa các cặp công tác khác chuyên môn hoạt động trên cùng một không gian phân đoạn, mà các cặp này thuộc hai dây chuyền đơn thành phần liên tiếp. Về bản chất, loại mối quan hệ theo chiều công nghệ là kiểu mối quan hệ tuần tự (ở đây theo logic công nghệ thường chỉ là kiểu quan hệ tuần tự thuận FS). Tuy nhiên chúng có thể chuyển đổi một cách tương đương sang các kiểu mối quan hệ song song, (quan hệ tuần tự khả chuyển). Trong quan hệ công nghệ giữa các công tác thuộc hai dây chuyền đơn liên tiếp trên mỗi không gian phân đoạn chung, có thể có khoảng thời gian chờ công nghệ của công tác chuyên môn trước (gián đoạn công nghệ), cái đó chính là độ trễ L ≠ 0 (khi đó mối quan hệ theo chiều công nghệ thường được biểu diễn bằng kiểu FS+L). Nếu không có gián đoạn công nghệ giữa hai công tác thực hiện trên một không gian phân đoạn chung, thì độ trễ L = 0 (công tác chuyên môn của dây chuyền đơn sau bắt đầu ngay sau khi công tác chuyên môn của dây chuyền đơn trước vừa kết thúc trên không gian phân đoạn chung, FS+0).

Hình 3.1. Dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng và dạng biến đổi tương đương của nó, được thể hiện trên sơ đồ xiên có gắn quan hệ công việc.

Trong hình trên, tại các không gian phân đoạn mà công tác chuyên môn của dây chuyền đơn liền sau không ghép sát tới hạn với công tác chuyên môn của dây chuyền trước thì sẽ xuất hiện gián đoạn tổ chức giữa các công tác của hai dây chuyền đơn cùng hoạt động trên không gian phân đoạn chung đó. Các gián đoạn tổ chức trên các không gian phân đoạn chung giữa các dây chuyền đơn không được tính vào độ trễ vì không phải do logic công nghệ gây ra. Chúng chỉ xuất hiện do hiệu ứng tác động tổng hợp của cả hai loại mối quan hệ theo công nghệ và theo chuyên môn (để duy trì tính liên tục của dây chuyền đơn). Chúng chính là các phần dự trữ thời gian giữa các công tác cùng hoạt động trên không gian phân đoạn chung, chỉ ghép sát mà không tới hạn. Những phần dự trữ này nếu được dùng, sẽ làm các công tác trở nên ghép sát tới hạn trên không gian phân đoạn chung, nhưng sẽ làm phá vỡ tính liên tục của dây chuyền đơn phía sau (làm xuất hiện các gián đoạn tổ chức dây chuyền, ngắt dây chuyền đơn sau). Khi các dây chuyền đơn bị gián đoạn tổ chức dây chuyền thì tính dây chuyền sẽ mất và chuyển thành phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp tổng quát. Hay nói cách khác, phương pháp tổ chức theo dây chuyền là phương pháp tổ chức tĩnh, gắn cố định các công tác trên trục thời gian, mọi cố gắng điều chỉnh tiến độ (trong đó có việc cân bằng) thì, hoặc sẽ làm phá vỡ sự liên tục của dây chuyền đơn thành phần, hoặc sẽ làm dây chuyền chuyên môn hóa được điều chỉnh trở thành dây chuyền chuyên môn hóa khác.

1.Phân loại dây chuyền chuyên môn hóa và thể hiện chúng gắn với các mối quan hệ công việc

[sửa]

1.1.Dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng

[sửa]
1.1.1.Ghép sát dây chuyền sản xuất không nhịp nhàng
[sửa]
Hình 3.2. Dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng biểu diễn qua phần mềm Microsoft Project.
Hình 3.3. Dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng được thể hiện bằng 2 dạng: dạng sơ đồ xiên và dạng sơ đồ ngang Gantt trong Microsoft Project.

Có 3 phương pháp tính ghép sát các dây chuyền đơn vị không nhịp nhàng (không đồng điệu) trong dây chuyền sản xuất: phương pháp giải tích có hỗ trợ bằng bảng tính của Budnhicov (M.S.Budnicov, Михаил Сергеевич Будников[1]), phương pháp tính trên ma trận dây chuyền của Galkin (I. G. Galkin, И. Г. Галкин), phương pháp ghép sát đồ họa trực tiếp trên sơ đồ xiên.

Phương pháp giải tích Budnhicov (Mikhail Sergeyevich Budnicov), được Budnhicov đưa ra trong cuốn Cơ sở về dây chuyền thi công xây dựng (Основы поточного строительства. Киев, Госстройиздат, 1961), như sau:

  • Giả định cho 2 dây chuyền đơn không nhịp nhàng: i(i+1), ghép sát tới hạn với nhau ở phân đoạn đầu tiên j = 1, (công tác i1 (công việc i trên phân đoạn 1) kết thúc thì công tác (i+1)1 (công việc (i+1) trên phân đoạn 1) bắt đầu ngay). Oi(i+1)1 = 0.
  • Khoảng ghép sát giả định trên các phân đoạn còn lại (từ phân đoạn j = 2 đến phân đoạn j = m) được tính bằng công thức: Oi(i+1)j =
  • Nếu Oi(i+1)j ≥ 0 với mọi j = (1 → m), thì 2 dây chuyền đơn không nhịp nhàng i(i+1) ghép sát với nhau tới hạn ở ít nhất trên phân đoạn 1 và các phân đoạn có Oi(i+1)j = 0 khác. Z1 = 0.
  • Nếu tồn tại các O-j = Oi(i+1)j < 0, thì xác định Z1 = max{|O-j|}
và các Zj = Oi(i+1)j + Z1 với j = (2 → m). (Điều này tương đương với việc tịnh tiến dây chuyền đơn (i+1) kế sau dây chuyền i theo hướng tăng của trục thời gian một thời lượng là Z1. Và trên phân đoạn thứ j nào đó mà có Zj = 0, hai dây chuyền đơn không nhịp nhàng i(i+1) ghép sát tới hạn).

Việc ghép sát bằng phương pháp giải tích Budnhicov, đòi hỏi phải lập bảng tính để tính toán, ngày nay có thể được hỗ trợ bằng bảng tính Microsoft Excel.

Phương pháp ghép sát đồ họa trực tiếp trên sơ đồ xiên, thực chất là phương pháp giải tích có hỗ trợ bằng việc thể hiện trên sơ đồ xiên. Trong phương pháp này, 2 dây chuyền đơn không nhịp nhàng: i(i+1), ban đầu được vẽ trên sơ đồ xiên dưới dạng ghép sát tới hạn với nhau ở phân đoạn đầu tiên, nếu chúng cắt nhau hoặc giao nhau thì sẽ có các O-j. Sau khi xác định được Z1, thì vẽ dây chuyền (i+1) tịnh tiến về phía chiều tăng của trục thời gian một khoảng là Z1 = max{|O-j|}.

Sau khi ghép sát tới hạn 2 dây chuyền i(i+1), mọi Zj của 2 dây chuyền đều ≥ 0, nếu trên phân đoạn j nào đó có Zj = 0 thì gọi là 2 dây chuyền ghép sát tới hạn trên phân đoan j, nếu các Zj giữa 2 dây chuyền đơn này trên mỗi phân đoạn j mà > 0 thì được gọi là gián đoạn tổ chức giữa 2 dây chuyền này trên phân đoạn j. Các gián đoạn tổ chức Zj > 0, nếu được biểu diễn trong sơ đồ mạng (tức là tổ chức theo dây chuyền trong sơ đồ mạng) thì chúng chính là dự trữ của w:công việc (chuyên môn) (i+1) trên các phân đoạn j, tuy nhiên các dự trữ này không được phép sử dụng vì nếu sử dụng chúng thì sẽ làm phá vỡ dây chuyền đơn (i+1), sinh ra các gián đoạn tổ chức dây chuyền ngắt rời sự liên tục của dây chuyền đơn này.

Gián đoạn tổ chức dây chuyền là những gián đoạn thời gian giữa hai công tác có cùng chuyên môn do một tổ chuyên nghiệp thực hiện lần trên hai không gian phân đoạn, dọc theo chiều chuyên môn. Gián đoạn này mang tính tổ chức thực hiện: làm cho sự thực hiện công việc chuyên môn của tổ chuyên nghiệp không được liên tục thành một dây chuyền đơn. Nguyên nhân gây ra các gián đoạn tổ chức dây chuyền gồm 2 nhóm: Nhóm thứ nhất, là do việc chuyển đổi từ gián đoạn tổ chức (tức là gián đoạn về mặt tổ chức trên mỗi không gian phân đoạn chung ghép sát nhưng không tới hạn) thành ra ghép sát tới hạn mà thành. Nhóm thứ hai, là do quan hệ theo điều kiện chuyển đợt chuyển tầng của các tổ chuyên nghiệp (hay dây chuyền đơn) đầu tiên gây ra các gián đoạn tổ chức dây chuyền cho các dây chuyền đơn (hay tổ chuyên nghiệp) phía sau.

Cả 3 phương pháp ghép sát đều dựa trên một nguyên tắc dịch chuyển nguyên khối toàn bộ từng dây chuyền đơn phía sau về sát với dây chuyền đơn phía trước để tìm điểm ghép sát tới hạn.

Hình 3.4. Ghép sát dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng theo phương pháp ma trận của Galkin.
Hình 3.5. Ghép sát dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng theo phương pháp giải tích Budnhicop.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra một phương pháp ghép sát mới dựa trên việc khai báo mối quan hệ công việc. Khi khai báo mối quan hệ để thể hiện đúng một dây chuyền không nhịp nhàng, với loại mối quan hệ theo chuyên môn dọc theo từng dây chuyền đơn sử dụng kiểu tuần tự thuận bắt đầu ngay FS+0, còn loại mối quan hệ theo công nghệ giữa các công tác trên từng phân đoạn dùng kiểu FS+L (nhưng xem xét tới trường hợp điển hình là không có gián đoạn công nghệ giữa các dây chuyền tức là L = 0). Phần mềm Microsoft Project sẽ tự tính và vẽ tiến độ cho đội chuyên môn hóa (hay dây chuyền chuyên môn hóa này) với điều kiện giàng buộc trên trục thời gian mặc định là theo hạn sớm. Dù khai báo theo cách này hay cách khác, thì công việc chuyên môn đầu tiên do tổ chuyên nghiệp thứ nhất thực hiện luôn lập thành một dây chuyền đơn đầu tiên. Cách khai báo này, thực chất là cho các công việc chuyên của các tổ chuyên nghiệp tiếp theo được ghép sát tới hạn ngay từ bước vào của phân đoạn đầu tiên. Đồng thời, cách khai báo này sẽ làm cho các cặp công tác chuyên môn khác nhau do hai tổ đội chuyên nghiệp liên tiếp thực hiện trên những không gian phân đoạn chung phía trước điểm ghép sát tới hạn, theo điều kiện khai báo đều trở nên ghép sát tới hạn trên không phân đoạn chung của chúng (tức là không có gián đoạn tổ chức trên những phân đoạn chung đó nữa). Trên những phân đoạn chung phía trước điểm ghép sát, mà đáng ra để tạo được dây chuyền đơn liền sau thì phải có gián đoạn tổ chức, nhưng do cách khai báo quan hệ công việc như trên gây ra không còn gián đoạn tổ chức nữa, thì gián đoạn tổ chức này khi đó được chuyển hóa thành gián đoạn tổ chức dây chuyền, làm ngắt rời dây chuyền đơn phía sau ra (quan hệ theo chiều công nghệ loại trừ tác dụng của quan hệ theo chiều chuyên môn). Không gian phân đoạn chung ngay sau gián đoạn tổ chức dây chuyền cuối cùng chính là điểm ghép sát tới hạn đầu tiên của hai dây chuyền đơn. Từ điểm ghép sát tới hạn đầu tiên trở đi, theo cách khai báo này, dây chuyền đơn phía sau là luôn liên tục (quan hệ theo chiều chuyên môn loại trừ tác dụng của quan hệ theo chiều công nghệ). Với cách khai báo mối quan hệ tuần tự thuận bắt đầu ngay theo chiều chuyên môn như trên chúng ta luôn xác định được ngay điểm ghép sát tới hạn đầu tiên giữa hai dây chuyền đơn, dọc theo các không gian phân đoạn hoạt động chung của chúng.

Theo một hướng khác, nếu ép cho các dây chuyền đơn được ghép sát tới hạn tại các không gian phân đoạn chung cuối cùng của chúng (bước ra của mỗi dây chuyền đơn). Và khai báo các mối quan hệ theo chiều chuyên môn của các dây chuyền đơn không phải là dây chuyền đơn đầu tiên, theo kiểu mối quan hệ tuần tự nghịch liên tục SF+0, kể từ không gian phân đoạn chung cuối cùng về đầu dây chuyên đơn. Còn các mối quan hệ theo chiều công nghệ giữa các cặp dây chuyền đơn liên tiếp vẫn giữ nguyên như cách khai báo thứ nhất bên trên (tức là loại mối quan hệ theo công nghệ giữa các công tác trên từng phân đoạn dùng kiểu FS+L, xét với L = 0). Trong cách khai báo này, do đặc tính riêng biệt của kiểu mối quan hệ SF+0, làm cho mỗi công tác chuyên môn được gắn liền với công tác cùng chuyên môn liền sau của mỗi dây chuyền đơn (không có gián đoạn tổ chức dây chuyền). Tuy nhiên, việc cố ép cho các dây chuyền đơn ghép sát tới hạn tại bước ra, mà thực tế chưa chắc chúng đã ghép sát tới hạn tại đó, làm cho tại những điểm ghép sát tới hạn thực tế giữa hai dây chuyền đơn liền kề, (do tác động đồng thời cả hai loại mối quan hệ: theo công nghệ FS+L, và theo chuyên môn SF+0), các công tác chuyên môn bị rồn cục lại không hoạt động tuần tự nữa, vi phạm nguyên tắc hoạt động không chồng chéo không gian của dây chuyền. Nhưng chính những điểm ùn ứ các công tác chuyên môn này lại là những điểm ghép sát tới hạn thực tế của hai dây chuyền đơn liên tiếp, và chúng ta có thể dễ dàng nhật ra được. Với cách khai báo thứ 2 này, theo chiều ngược từ cuối lên đầu dây chuyền đơn, ta thấy rằng do tác động đồng thời cả hai loại mối quan hệ: (theo công nghệ FS+L, và theo chuyên môn SF+0), nên từ điểm ghép tới hạn đầu tiên giữa hai dây chuyền đơn, trở về đầu dây chuyền đơn phía sau, dây chuyền đơn này được ghép nối liên tục không bị bất kỳ một gián đoạn tổ chức dây chuyền nào làm phá vỡ. Và tại phần đầu của dây chuyền đơn này, trên các phân đoạn chỉ ghép sát mà không tới hạn với dây chuyên đơn liền trước, gián đoạn tổ chức được giữ nguyên, không bị chuyển thành gián đoạn tổ chức dây chuyền như cách khai báo quan hệ thứ nhất ở trên. Như vậy, để tất cả các dây chuyền đơn liền sau đảm bảo đúng nghĩa là từng dây chuyền đơn thực sự, thì ta phải khai báo mối quan hệ theo chiều chuyên môn theo cách phối hợp 2 kiểu khai báo trên: tính từ điểm ghép sát tới hạn đầu tiên giữa 2 dây chuyên đơn trở về đầu mỗi dây chuyền đơn liền sau (phần đầu), mối quan hệ chuyên môn phải được khai báo theo kiểu SF+0. Phần sau mỗi dây chuyền đơn ( kể từ điểm ghép sát tới hạn về cuối dây chuyên đơn) mối quan hệ theo chuyên môn phải được khai báo theo kiểu FS+0).

Hình 3.6. Cách khai báo quan hệ thuận và khai báo quan hệ nghịch.

Quy trình ghép sát dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng theo phương pháp mới (phương pháp khai báo mối quan hệ công việc) gồm 3 bước sau: •Bước 1: khai báo theo quan hệ thuận. Trong bảng cơ cấu phân chia công việc WBS, dọc theo chiều chuyên môn của mọi dây chuyền đơn là chuỗi liên kết các công tác có cùng một chuyên môn do từng tổ chuyên nghiệp thực hiện, ta khai báo các mối quan hệ công việc theo chuyên môn theo kiểu tuần tự thuận bắt đầu ngay FS+0. Các mối quan hệ công việc theo công nghệ giữa các cặp công tác khác chuyên môn của hai dây chuyền đơn liền kề hoạt động trên một không gian phân đoạn chung, được khai báo theo kiểu FS+L (L là gián đoạn công nghệ). •Bước 2: xác định điểm ghép sát tới hạn đầu tiên. Trên tiến độ thể hiện dạng sơ đồ ngang Gantt Chart hay Tracking Gantt thể hiện khai báo thuận trên. Luôn xác định được các điểm ghép sát tới hạn đầu tiên của mọi dây chuyền đơn phía sau với dây chuyền đơn liền trước. Các điểm ghép sát tới hạn này chính là công tác chuyên môn trên phân đoạn hoạt động đầu tiên ngay sau khoảng gián đoạn tổ chức dây chuyền cuối cùng trên dây chuyền đơn đang xét. Tại công tác ghép sát tới hạn này, loại bỏ mối quan hệ theo chiều chuyên môn với công tác cùng chuyên môn liền trước nó, chỉ để lại mối quan hệ theo chiều công nghệ với công tác khác chuyên môn hoạt động trên cùng phân đoạn chung của dây chuyền đơn liền trước (để lấy điểm ghép sát tới hạn đầu tiên làm tâm điểm thay đổi khai báo quan hệ). •Bước 3: kết nối phần đầu dây chuyền đơn thành chuỗi liên tục bằng khai báo quan hệ nghịch. Trên cột quan hệ liền trước trong WBS, trên mỗi một dây chuyền đơn phía sau (thể hiện trên tiến độ ngang), bắt đầu từ công tác cùng chuyên môn liền trước điểm ghép sát tới hạn, theo hướng trở về đầu dây chuyền đơn, quan hệ công việc theo chiều chuyên môn của các công tác này đều được khai báo ngược lại bằng kiểu quan hệ SF+0 với công việc liền sau chúng trong dây chuyền, (các mối quan hệ theo công nghệ vẫn được giữ nguyên). Kết quả là mọi dây chuyền đơn sau 3 bước khai báo sẽ được thể hiện trên tiến độ một cách liên tục (theo đúng tính chất dây chuyền) và ghép sát với nhau.

Hình 3.7. Cách khai báo quan hệ thuận.
Hình 3.8. Xác định điểm ghép sát tới hạn đầu tiên (vị trí gián đoạn tổ chức dây chuyền cuối cùng được đánh dấu khuyên tròn trên tiến đồ sơ đồ ngang Tracking Gantt.
Hình 3.9. Khai báo quan hệ nghịch tại phần đầu mỗi dây chuyền đơn.
Hình 3.10. Kết quả của phương pháp ghép sát dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng bằng khai báo mối quan hệ công việc (kết quả hoàn toàn tương đương với dạng sơ đồ xiên gắn mối quan hệ biểu diễn ví dụ này ở phần trên (hình 3.1.)).

Phương pháp ghép sát dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng bằng khai báo mối quan hệ, sử dụng trực tiếp các phần mềm vi tính chuyên dụng cho quản lý dự án (Microsoft Project, hay Primavera), nên không phải tính toán mà lại thể hiện kết quả ngay ra các dạng sơ đồ biểu diễn tiến độ. Các phương pháp ghép sát chuyền thống thường phải lập bảng tính với nhiều dạng công thức tính, nên dù có sử dụng phần mềm bảng tính Excel, thì vẫn phải thực thi nhiều thao tác phụ trợ hơn phương pháp mới này. Đồng thời, các phương pháp cũ sẽ không thể thể hiện được ngay dạng sơ đồ tiến độ, mà cần phải vẽ tiến độ theo một cách khác ra giấy mà không dùng được bằng phần mềm tiến độ.

Hình 3.11. Ghép sát dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng trên Microsoft Project.

Qua việc ghép sát dây chuyền, chúng tôi đồng thời nhận thấy rằng để đảm bảo thể hiện đúng dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng bằng mối quan hệ công việc, thì cốt lõi là khai báo các mối quan hệ theo điểm ghép sát tới hạn. Trong mỗi một dây chuyền đơn liền sau, các công tác chuyên môn hoạt động trên các phân đoạn từ điểm ghép sát tới hạn với dây chuyền đơn liền trước, trở về đầu dây chuyền đơn đang xét thì sử dụng mối quan hệ tuần tự nghịch (SF+0) làm mối quan hệ theo chiều chuyên môn. Còn tính từ điểm ghép tới hạn trở đi về cuối dây chuyền đơn đang xét, thì dùng mối quan hệ tuần tự thuận (FS+0) để làm quan hệ theo chiều chuyên môn. Điểm ghép sát tới hạn là điểm kết nối theo logic công nghệ giữa hai dây chuyền đơn.

1.2.Dây chuyền chuyên môn hóa nhịp nhàng

[sửa]
Hình 3.12. Biến đổi một dây chuyền chuyên môn hóa nhịp bội về dây chuyền chuyên môn hóa nhịp nhàng với dây chuyền đơn bội số biến đổi về đồng nhịp, cường độ nguồn lực là bội số.

Trong loại dây chuyền chuyên môn hóa nhịp nhàng chỉ có thể có hoặc không có gián đoạn công nghệ và gián đoạn này (nếu có) cũng thường là hằng số trên mọi không gian phân đoạn chung giữa hai dây chuyền đơn thành phần liền kề (vì là điều kiện gián đoạn công nghệ của cùng một công việc chuyên môn (dây chuyền đơn) liền trước), mà không tồn tại gián đoạn tổ chức giữa chúng trên các không gian phân đoạn chung (do chúng đồng điệu). Ví dụ, nếu cùng thi công trong mùa khô thì điều kiện gián đoạn chờ khô lớp trát tường trước khi sơn tường là đều nhau trên các phân đoạn hoàn thiện tường.

1.3.Dây chuyền chuyên môn hóa nhịp bội

[sửa]

Dây chuyền chuyên môn hóa nhịp bội thì điểm ghép sát tới hạn chỉ có thể ở bước vào hay bước ra của dây chuyền.

Hình 3.13. Biến đổi dây chuyền đơn nhịp ước số (còn gọi là cân bằng dây chuyền nhịp bội theo nhịp nhanh), trong tiến độ dây chuyền nhịp bội lẻ một dây chuyền nhịp ước (nhịp nhanh), thành tổ đội chuyên nghiệp (không còn là dây chuyên đơn) hoạt động với mô đun chu kỳ bằng với nhịp của các dây chuyền nhịp bội đều nhịp còn lại (các nhịp chậm). Nhằm làm giảm tối đa thời lượng thực hiện toàn bộ dự án.
Hình 3.14. Biến đổi dây chuyền đơn nhịp bội số (còn gọi là cân bằng dây chuyền nhịp bội theo nhịp nhanh), trong tiến độ dây chuyền nhịp bội (nhịp nhanh), thành nhiều dây chuyền đơn cùng chuyên môn.
Hình 3.15. Biến đổi dây chuyền đơn nhịp bội số (còn gọi là cân bằng dây chuyền nhịp bội theo nhịp nhanh bằng chế độ làm 3 ca/ngày).
Hình 3.16. Biến đổi dây chuyền đơn nhịp bội số (còn gọi là cân bằng dây chuyền nhịp bội theo nhịp nhanh bằng chế độ làm 2 ca/ngày).
Hình 3.17. Biến đổi dây chuyền đơn nhịp bội số (còn gọi là cân bằng dây chuyền nhịp bội theo nhịp nhanh), trong tiến độ dây chuyền nhịp bội (nhịp nhanh), thành dây chuyền đơn cùng nhịp nhanh nhưng nguồn lực tăng lên bội số. Nhằm làm giảm tối đa thời lượng thực hiện toàn bộ dự án.
Hình 3.18. Thể hiện bằng Mcrosoft Project hai dạng dây chuyền nhịp bội trước và sau khi cân bằng.

Phương pháp tổ chức thực hiện công việc theo dây chuyền có ưu điểm là thường đảm bảo cho biều đồ nguồn nhân vật lực được điều hòa (do các dây chuyền đơn làm việc liên tục với cường độ không đổi). Một ưu điểm nữa là có thể áp dụng trong điều kiện nguồn lực chuyên nghiệp hạn chế (mỗi dây chuyền đơn chỉ cần một tổ nhân vật lực với biên chế cố định thực hiện). Tuy nhiên, phương pháp tổ chức dây chuyền có những nhược điểm sau: tiến độ theo phương pháp này là tĩnh và rất khó điều chỉnh, thời lượng thực hiện toàn bộ dự án không phải là ngắn nhất.

Chương IV: Phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp

[sửa]
Hình 4.1. Tiến độ thu được sau khi cân bằng dây chuyền chuyên môn hóa nhịp bội (đường Tracking Gantt, màu đỏ-lam), đã không còn là các dây chuyền chuyên môn hóa (tức là không theo phương pháp tổ chức dây chuyền do các dây chuyền đơn thành phần bị ngắt gián đoạn), mà trở thành tiến độ tổ chức theo phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên môn (hoạt động không liên tục).
Hình 4.2. Phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên môn không liên tục (đường Baseline, màu đen) và phương pháp tổ chức theo dây chuyền chuyên môn hóa không nhịp nhàng (đường Tracking Gantt, màu đỏ và lam).
Hình 4.3. Thể hiện lại tiến độ phần thân tòa nhà KeangNam theo phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp trên phần mềm Microsoft Project vào thời điểm hiện tại.

Phương pháp tổ chức chức thực hiện công việc theo tổ đội chuyên nghiệp là một phương pháp tổ chức (tức là bố trí và sắp xếp) việc thực hiện các công việc trong sản xuất hay trong thực hiện dự án. Phương pháp tổ chức theo tổ đội lao động chuyên nghiệp là phương thức tổ chức việc thực hiện công việc trong một dự án có nhiều gói công việc tương tự nhau, trong mỗi gói công việc đó đều gồm có các công tác chuyên môn giống nhau. Việc thực hiện các gói công việc này đều được giao cho một nhà thầu duy nhất làm, mà nhà thầu này trực tiếp thực hiện dự án chứ không giao thầu lại cho các nhà thầu phụ. Các công tác chuyên môn này được tổ chức thực hiện bởi các tổ đội chuyên nghiệp của nhà thầu đó, mà các tổ đội này đều có chuyên môn chuyên sâu tương ứng với từng loại công tác. Những tổ đội chuyên nghiệp này phải bắt buộc có biên chế ổn định (tính định biên), không được thay đổi trong quá trình thực hiện công việc chuyên môn từ phân đoạn công việc trọn gói này sang phân đoạn công việc trọn gói khác. Tuy nhiên, quá trình thực hiện mỗi công tác chuyên môn tuần tự từ phân đoạn này sang phân đoạn khác của mỗi tổ nhân vật lực chuyên nghiệp có thể là gián đoạn về thời gian hoặc liên tục về thời gian. Sự gián đoạn về thời gian giữa các công tác cùng chuyên môn trên các phân đoạn hoạt động của mỗi tổ chuyên nghiệp, được hình thành bởi hai nguyên nhân: Thứ nhất, là do điều chỉnh các gián đoạn tổ chức, biến chúng thành các gián đoạn tổ chức dây chuyền, để các công tác ghép sát tới hạn và phá vỡ dây chuyền đơn. Thứ hai, là do các gián đoạn công nghệ chuyển đợt gây ra các gián đoạn tổ chức dây chuyền, khi chuyển đợt thi công. Nếu liên tục về thời gian, thì quá trình thực hiện công việc chuyên môn của mỗi tổ đội chuyên nghiệp biên chế cố định sẽ hợp thành một dây chuyền đơn vị chuyên môn. Và nếu mọi công việc chuyên môn đều được các tổ đội chuyên nghiệp đó thực hiện theo những dây chuyền đơn vị chuyên môn, thì phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp trở thành phương pháp tổ chức thực hiện công việc theo dây chuyền. Phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp thường được áp dụng trong các dự án xây dựng, có nhiều gói công việc chứa các công việc chuyên môn giống nhau. Gói công việc, hay công việc trọn gói, hoặc công việc khoán gọn, là cách phân chia công việc theo phạm vi (tức là theo quy mô, hay là theo chiều ngang). Trong dự án xây dựng, gói công việc có thể là các cấp: toàn bộ dự án, một hạng mục công trình (phần ngầm, phần kết cấu thô, phần hoàn thiện,...), một tầng công trình (bao gồm cả phần kết cấu thô, phần hoàn thiện, phần dịch vụ kỹ thuật,...), một phân đoạn thi công (bao gồm cả phần kết cấu thô, phần hoàn thiện, phần dịch vụ kỹ thuật,...). Trong mỗi gói công việc đều có một số các công tác chuyên môn giống nhau, ví dụ như: trên mỗi phân đoạn của một tầng, gói công việc phần kết cấu thô đều bao gồm các công tác: lắp cốt thép cột, lắp cốp pha cột, đổ bê tông cột, tháo cốp pha cột, lắp cốp pha dầm sàn, lắp cốt thép dầm sàn, đổ bê tông dầm sàn. Tính cố định biên chế của tổ đội chuyên nghiệp (tính định biên) ở Phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp, làm cho thời lượng thực hiện của các công tác chuyên môn trên từng phân đoạn bị cố định (tỷ lệ nghịch với biên chế tổ đổi) ngay từ khi bắt đầu lập kế hoạch tiến độ mà không thay đổi được. Khi tổ đội chuyên nghiệp làm việc liên tục theo thời gian thì phương pháp này trở thành phương pháp dây chuyền và một tổ chuyên môn lập thành một dây chuyền đơn thành phần. Phương pháp tổ chức theo dây chuyền bản chất là một trạng thái tĩnh, bị cố định trên trục thời gian, của phương pháp tổ đội chuyên nghiệp. So với phương pháp dây chuyền, phương pháp tổ đội chuyên nghiệp có thể thay đổi linh hoạt hơn chút ít, do các tổ chuyên nghiệp không cần phải bắt buộc hoạt động liên tục. Phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp cũng như phương pháp dây chuyền thích hợp trong trường hợp nguồn lực chuyên môn hạn chế.

Chương V: Phương pháp tổ chức theo gói công việc

[sửa]

Trong phương pháp tổ chức theo công việc trọn gói, công việc không phân rõ theo chuyên môn mà theo gói công việc. Mà gói công việc có thể là được thực hiện trên mỗi phân đoạn, cũng có thể trên một đợt thi công nhiều phân đoạn, hay một tầng công trình, hạng mục công trình, hoặc toàn bộ công trình. Mỗi gói công việc do một nhà thầu phụ độc lập thực hiện, với nhiều loại công tác chuyên môn trong gói công việc đó, tuy nhiên các công tác có cùng chuyên môn ở các gói công việc khác nhau thì sẽ không được thực hiện bởi cùng một tổ đội chuyên nghiệp nên sẽ không có mối quan hệ phụ thuộc theo công việc chuyên môn như ở 2 phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp và theo dây chuyền. Và do đó, biên chế các tổ đội thực hiện từng công tác chuyên môn, có thể thay đổi linh hoạt trong từng gói công việc, mà không bị cố định không đổi như 2 phương pháp tổ chức kia. Thời lượng công tác trong phương pháp tổ chức theo công việc trọn gói cũng như của toàn dự án không phụ thuộc vào những biên chế tổ đội cố định cứng nhắc. Đây là khác biệt lớn nhất của phương pháp tổ chức thực hiện công việc theo công việc trọn gói so với 2 phương pháp theo tổ đội và theo dây chuyền. Việc thay đổi biên chế tổ đội thi công trong từng gói công việc (từng phân đoạn, từng hạng mục) một cách độc lập và linh hoạt giúp cho việc điều chỉnh tiến độ trong phương pháp tổ chức theo công việc trọn gói được dễ dàng và linh hoạt hơn, so với tiến độ tổ chức theo phương pháp theo tổ đội và đặc biệt linh hoạt hơn so với phương pháp tổ chức theo dây chuyền (tĩnh và cố định). Trong phương pháp tổ chức theo gói công việc chỉ có sự tồn tại của hai loại mối quan hệ công việc theo tính chất quan hệ đó là loại mối quan hệ theo chiều công nghệ và loại mối quan hệ theo điều kiện chuyển đợt chuyển tầng. Mà hoàn toàn không có loại mối quan hệ theo chiều chuyên môn giữa các nguồn nhân vật lực cùng chuyên môn nhưng của hai nhà thầu phụ thực hiện hai gói công việc khác nhau. Phương pháp tổ chức theo gói công việc là loại phương pháp tổ chức theo chiều ngang (chiều logic công nghệ). Phương pháp tổ chức theo gói công việc có thời lượng thực hiện dự án là ngắn nhất. Chúng ta xem xét một tiến độ xây dựng nhà nhiều tầng tổ chức theo phương pháp gói công việc trong hình 5.1. dưới đây. Với số lượng phân đoạn thi công phần thân trên một tầng là 12 phân đoạn. Với dự án này, nếu các công tác chuyên môn của phần thân ở các tầng được liên kết với nhau bằng mối quan hệ công việc theo chuyên môn (nghĩa là được tổ chức thực hiện bằng từng tổ đội chuyên nghiệp biên chế cố định) thì chúng sẽ hợp thành những dây chuyền đơn thực sự vì chúng được đảm bảo hoạt động liên tục, và biểu đồ nhân lực sẽ điều hòa. Tuy nhiên, tiến độ này tổ chức theo phương pháp gói công việc (không có loại mối quan hệ theo chiều chuyên môn). Công tác lắp cốp pha cột, công tác đầu tiên bắt đầu thi công một tầng mới, không phải phụ thuộc vào việc chờ đợi cho tổ lắp đặt cốp pha cột chuyên nghiệp thực hiện xong công việc ở tầng dưới (sau 12 ngày kể từ khi thi công bắt đầu lắp cốp pha cột phân đoạn đầu tiên tầng dưới).

Hình 5.1. Tiến độ nhà nhiều tầng áp dụng phương pháp tổ chức thi công theo gói công việc (mỗi tầng nhà do một nhà thầu phụ thi công). Nguồn nhân vật lực của các thầu phụ là độc lập với biên chế tổ đội chuyên nghiệp linh hoạt và không kết nối thành các dây chuyền chuyên môn.

Công tác cốp pha cột ở phân đoạn đầu tầng trên chỉ phụ thuộc vào điều kiện mở mặt bằng (điều kiện chuyển đợt chuyển tầng), được quyết định bởi việc kết thúc đổ bê tong phân đoạn đầu sàn tầng dưới với độ trễ công nghệ là điều kiện đạt cường độ để đi lại trên bề mặt bê tông sàn (trong dự án này là 8 ngày kể từ khi bắt đầu thi công cốp pha cột tầng dưới ở phân đoạn đầu tiên). Do đó riêng phân thân, dự án thi công nhà nhiều tầng này, nếu được tổ chức theo phương pháp gói công việc sẽ đẩy nhanh thời hạn thực hiện ở các tầng sớm hơn 4 ngày so với phương pháp dây chuyền. Nhìn trên tổng thể toàn bộ dự án, tiến độ của phương pháp gói công việc có tổng thời lượng dự án ngắn hơn nhiều so với phương pháp dây chuyền. Mối quan hệ công việc theo chuyên môn là loại mốt quan hệ không bắt buộc trong tổ chức thi công. Mối quan hệ công việc theo chuyên môn là mối quan hệ công việc trong mỗi tổ chuyên nghiệp có biên chế cố định. Khi phương pháp tổ chức theo gói công việc có thêm các mối quan hệ công việc theo chiều chuyên môn thì sẽ trở thành phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp. Chúng ta xem xét ví dụ về tiến độ thi công phần thân tòa nhà KeangNam. Mỗi tầng nhà được chia thành 5 khu vực (A, B, C, D, E) là những gói thầu riêng biệt thi công bê tông toàn khối cột, vách, và sàn ứng suất trước. Mỗi khu vực được chia thành 2 hay 3 loại cấu kiện bê tông toàn khối (là cột và vách (đợt cấu kiện đứng), cùng sàn ứng suất trước (đợt cấu kiện nằm)). Riêng 2 khu vực biên (là A, E) chỉ có cột và sàn, 3 khu vực còn lại có cả cột, vách và sàn. Mỗi loại cấu kiện trong từng khu vực lại được hợp thành các gói công việc với các công tác chuyên môn thành phần là cốp pha, cốt thép, và bê tông, (riêng với sàn còn thêm công tác căng ứng suất trước). Xem xét các mối quan hệ công việc được thể hiện trong bản tiến độ, ta thấy rằng: các mối quan hệ giữa các gói công việc thi công cột trong các khu vực mặt bằng với nhau không phải là loại mối quan hệ theo công nghệ (vì là quan hệ giữa cùng một loại gói công việc như nhau với nhau), cũng không phải là mối quan hệ theo chuyên môn của cùng một tổ đội chuyên nghiệp (vì quan hệ giữa các chuyên môn khác nhau (bê tông với cốp pha) và khối lượng chênh lệch lớn thực hiện với thời lượng như nhau không thể lập tổ biên chế cố định để thực hiện). Thực chất, các mối quan hệ này là mối quan hệ theo điều kiện mở mặt bằng (thay cho quan hệ theo điều kiện chuyển đợt giữa các tầng, quyết định bắt đầu thi công ở khu vực mặt bằng tiếp theo (do ở đây chỉ đưa ra tiến độ cho hai tầng điển hình)). Các công tác khác chuyên môn kế tiếp nhau liên tục theo công nghệ hàm chứa loại mối quan hệ công nghệ (loại mối quan hệ công nghệ là loại quan hệ công việc bắt buộc phải có trong bất kỳ một bản tiến độ nào). Mặc dù, các gói công việc, của cùng loại cấu kiện trên cùng một khu vực của các tầng khác nhau, có mức độ chuyên môn như nhau và với khối lượng đồng đều có đủ điều kiện để được thực hiện bởi từng tổ đội chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trong bản tiến độ lại hoàn toàn không thể hiện loại mối quan hệ theo chiều chuyên môn giữa các công tác chuyên môn trong các gói công việc giống nhau này của các tầng. Các mũi tên lớn tô màu chỉ được dùng để chỉ hướng phát triển của biểu đồ tiến độ theo tầng (với tốc độ 5 ngày một tầng). Do vậy, bản tiến độ thi công phần thân tòa nhà KeangNam này thể hiện theo phương pháp tổ chức thi công gói công việc. Loại mối quan hệ theo chiều chuyên môn của tổ đội chuyên nghiệp là không bắt buộc. Và để minh họa rõ hơn, chúng tôi thể hiện lại bản tiến độ này trên phần mềm Microsoft Project với thời gian hiện tại và theo phương pháp tổ chức theo gói công việc trong hình 5.3.

Hình 5.2. Tiến độ phần thân tòa nhà KeangNam Hanoi Landmark Tower.
Hình 5.3. Thể hiện lại tiến độ phần thân tòa nhà KeangNam theo phương pháp tổ chức theo gói công việc trên phần mềm Microsoft Project vào thời điểm hiện tại.

Phương pháp tổ chức theo gói công việc rất linh hoạt trong việc điều chỉnh. Đồng thời, phương pháp này có thể rút ngắn tối đa thời lượng thực hiện toàn bộ dự án. Tuy nhiên, phương pháp này tính điều hòa nguồn lực là thấp, biểu đồ nhân vật lực thường có nhiều đột biến chứ không điều hòa.

Kết luận và kiến nghị

[sửa]
Một bản mẫu đồ án Tổ chức thi công.
Cơ cấu phân chia công việc (WBS)) của nhà 7 tầng bê tông cốt thép toàn khối, tổ chức thi công bằng phương pháp tổ chức theo gói công việc, thể hiện bằng phần mềm Microsoft Project.

Nghiên cứu đã giới thiệu dạng thể hiện tiến độ bằng sơ đồ mạng nút quan hệ PDM, một thuật giải đích thực được dùng làm cơ sở của phần mềm Microsoft Project và có nhiều ưu điểm, tuy nhiên vẫn chưa được đưa vào giáo trình tổ chức xây dựng. Đồng thời, nghiên cứu đưa ra một tầm nhìn mới về các phương pháp tổ chức thi công, và đưa ra các cách kết nối giữa các công việc trong cơ cấu phân chia công việc khi áp dụng từng phương pháp tổ chức thi công này. Với các phương pháp tạo lập các mối liên kết công việc trong cơ cấu phân chia công việc, được xác định trong nghiên cứu này, việc lập tiến độ theo phương pháp sơ đồ mạng PDM nhập đầu vào cho bản tiến độ trên phần mềm vi tính (trong đó có MProject) trở nên dễ dàng. Nghiên cứu đã đưa ra các cách thể hiện mới bằng sơ đồ ngang Gantt char của MProject, sơ đồ xiên gắn mối quan hệ công việc và sơ đồ mạng PDM cho phương pháp tổ chức dây chuyền. Với những kết quả thu được như trên của nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng cần phải đưa vào giáo trình tổ chức thi công lý thuyết về sơ đồ mạng PDM để sinh viên hiểu được bản chất thuật giải của các phần mềm quản lý dự án như Microsoft Project. Đồng thời cải tiến lý thuyết tổ chức thi công phù hợp với lý thuyết quản lý dự án hiện đại.

  1. M.S.Budnicov trên Bách khoa toàn thư Xô Viết.

PHẦN II: HƯỚNG DẪN ĐỒ ÁN

Cách lập Cơ cấu phân chia công việc cho dự án thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối

[sửa]

lập danh mục công việc theo logic công nghệ

[sửa]
Bảng khối lượng các vật liệu xây dựng chính trong dự án làm ví dụ cho đồ án tổ chức thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối.
Tiến độ theo Microsoft Project của dự án nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối làm ví dụ cho đồ án tổ chức thi công (tổ chức theo phương pháp công việc trọn gói (khoán gọn)).

Thường một dự án xây dựng nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối được phân chia thành 3 hay 4 hạng mục là: hạng mục phần ngầm, hạng mục phân thân, hạng mục phần hoàn thiện trong (có thể nhập 2 hạng mục phần thân và hoàn thiện trong làm một hạng mục vì chúng cùng được phân độc lập theo không gian tầng nhà) và hạng mục phần hoàn thiện ngoài.

Phần ngầm nhà nhiều tầng thường được thi công theo quy trình công nghệ "đào mở thi công từ dưới đáy lên" (Bottom Up). Một số có thể được thi công theo phương pháp công nghệ thi công đặc biệt là Công nghệ thi công Top-down. Tuy nhiên, quy trình công nghệ của phương pháp thi công top-down không được đề cập trong hướng dẫn đồ án này. Trong đồ án này chỉ giới hạn trong thi công phần ngầm đơn giản với loại kết cấu móng nông, thi công theo phương pháp "đào mở thi công móng từ dưới đáy lên". Quy trình công nghệ "đào mở thi công móng từ dưới đáy lên" như sau: Đào đất hố móng bằng máy đào --> đào sửa hố móng bằng thủ công --> đổ bê tông lót móng --> lắp cốp pha móng --> lắp cốt thép móng --> đổ bê tông móng --> tháo cốp pha móng --> lấp đất móng (lấp đất đợt 1 đến cốt mặt móng) --> xây móng và thi công các công trình kỹ thuật ngầm (bể phốt, bể nước ngầm) --> tôn nền tầng trệt (lấp đất đợt 2) --> đặt cốt thép nền tầng trệt --> đổ bê tông nền tầng trệt.

Thi công phần thân nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối thông thường (không ứng suất trước) có thể theo các quy trình công nghệ thi công trong mỗi tầng như sau:

  • Công nghệ thi công lắp đặt khuôn đúc (cốp pha) cột, vách, dầm và và sàn cùng lúc và đổ bê tông toàn bộ cùng một lần (công nghệ đúc bê tông kết cấu một lần hay công nghệ thi công bê tông toàn khối một đợt). Trình tự thi công gồm: Lắp buộc cốt thép cột, vách cứng --> đặt các đường ống chôn sẵn trong cột và vách cứng --> dựng khuôn đúc cột, vách cứng, dầm, sàn --> đổ bê tông cột, vách, dầm và sàn --> bảo dưỡng bê tông --> sau khi cường độ đạt yêu cầu, tháo dỡ khuôn đúc cột, vách, dầm, sàn.
  • Công nghệ thi công tách rời cột và vách với dầm và sàn (công nghệ đúc bê tông kết cấu hai lần hay công nghệ thi công bê tông toàn khối hai đợt). Trình tự thi công gồm: Lắp buộc cốt thép cột, vách --> dựng khuôn đúc cột, vách --> đổ bê tông cột và vách đến dưới đáy dầm 3-5 cm --> tháo dỡ khuôn đúc vách, cột (để lại ván khuôn đầu cột phía trên đáy dầm) --> dựng đà ngang, giáo chống đỡ ván khuôn dầm --> lắp dựng ván khuôn đáy dầm --> lắp dựng ván khuôn thành dầm --> lắp dựng cốp pha (khuôn đúc) sàn --> lắp đặt cốt thép dầm --> lắp đặt cốt thép sàn, chôn sẵn các đường ống kỹ thuật chìm trong sàn --> đổ bê tông dầm sàn --> bảo dưỡng bê tông --> sau khi bê tông đạt cường độ để có thể tháo dỡ ván khuôn, thì tháo cốp pha (khuôn đúc) dầm và sàn (có thể tháo cốp pha thành dầm trước khi tháo cốp pha đáy dầm và cốp pha sàn, hay cũng có thể tháo dỡ chúng đồng thời với nhau).
  • Công nghệ thi công lần lượt cột và vách, tiếp theo đến dầm, cuối cùng là sàn, riêng rẽ nhau (công nghệ thi công bê tông toàn khối ba đợt).
  • Công nghệ thi công cốp pha bay (thi công đúc bê tông cột, vách, dầm trước (có thể bằng "cốp pha trượt"), thi công bê tông sàn sau trên hệ cốp pha bay tấm lớn).

Trong đó, hai công nghệ đầu là những công nghệ thông thường, được áp dụng cho hướng dẫn đồ án này. Còn hai công nghệ sau thì không được sử dụng trong hướng dẫn đồ án này.

Phần xây và hoàn thiện trong mỗi tầng được tiến hành sau khi cốp pha chịu lực ở từng tầng đó được tháo dỡ. Quy trình công nghệ thi công phần xây và hoàn thiện trong mỗi tầng như sau: Xây tường --> trèn khuôn cửa gỗ (đồng thời với xây tường) --> đặt (và chôn) đường ống và đường dây cấp điện nước trong tường xây và kết cấu bê tông phần thân (điện nước thô) --> trát trần và trát tường trong phòng --> ốp lát tường và nền trong phòng --> trát trần và tường hành lang và cầu thanh (có thể tiến hành đồng thời với ốp lát trong phòng --> lát nền hành lang và cầu thang mỗi tầng (có thể cầu thang được lát sau cùng với hạng mục hoàn thiện ngoài, và thi công từ tầng trên cùng xuống tầng trệt cho toàn nhà) --> sơn tường và trần trong phòng mỗi tầng --> sơn tường và trần hành lang --> lắp cửa đi và cửa sổ các phòng trong tầng --> lắp thiết bị điện nước trong phòng mỗi tầng (điện nước thiết bị).

Phần làm mái và hoàn thiện mặt ngoài thường có quy trình công nghệ như sau: Xây tường chắn mái --> thi công chống thấm, chống nóng mái --> thi công hệ thống kỹ thuật điện nước ngoài nhà (bể nước mái, hệ chống sét, viễn thông,...) --> lát mái --> trát tường ngoài (từ mái xuống đất) --> lắp vách kính, cửa sổ mặt ngoái nhà --> sơn tường ngoài nhà.


Hướng dẫn đồ án tổ chức thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối/Theo dõi và kiểm soát thực hiện tiến độ

Quản lý giá trị thu được

[sửa]

Quản lý giá trị thu được (tiếng Anh là Earned value management, viết tắt là EVM) là một kỹ thuật quản lý dự án để đo lường sự tiến triển (tiến trình thực hiện) của dự án một cách khách quan.

Quản lý giá trị thu được có khả năng kết hợp các phép đo về phạm vi, tiến độchi phí trong một hệ thống tích hợp duy nhất. Khi áp dụng đúng, việc quản lý giá trị thu được sẽ cung cấp một cảnh báo sớm về những vấn đề thực thi dự án. Ngoài ra, thuật quản lý giá trị thu được hứa hẹn cải thiện việc xác định rõ phạm vi dự án, ngăn chặn sự mất kiểm soát phạm vi dự án (Scope creep), truyền đạt về tiến trình mục tiêu tới các bên liên quan và giữ cho nhóm dự án tập trung vào việc đạt được tiến bộ.

Quản lý giá trị thu được là kỹ thuật kiểm soát sự thực hiện của dự án, kết hợp được cả việc kiểm soát chi phí lẫn kiểm soát tiến độ dự án. Quản lý giá trị thu được chính là kỹ thuật kiểm soát chi phí của dự án, nhưng gắn liền hữu cơ với việc kiểm soát tiến độ thực hiện.

Giới thiệu về Quản lý giá trị thu được

[sửa]

Những điểm đặc trưng chủ yếu của việc triển khai thực hiện thuật quản lý giá trị thu được bao gồm:

  1. Một bản kế hoạch dự án (được lập trước khi khởi công) xác định công việc phải hoàn thành, trong đó bao gồm cả kế hoạch về chi phí thực hiện (tức là bản dự toán) và kế hoạch về thời gian thực hiện (tức là bản tiến độ).
  2. Giá trị kinh phí dự kiến (cấp theo kế hoạch dự án) cho một công việc tại thời điểm kiểm soát dự án (còn gọi là thời điểm báo cáo), được gọi là giá trị dự kiến PV (Planned Value) hoặc Dự toán ngân quỹ chi phí cho công việc theo tiến độ BCWS (tiếng Anh là Budgeted Cost of Work Scheduled),
  3. Giá trị kinh phí (tức chi phí) theo dự toán (tức là kế hoạch trước khởi công) của phần khối lượng công việc thực tế đã hoàn thành tính tới thời điểm báo cáo (của công việc được theo dõi), gọi là giá trị thu được EV (Earned Value) hoặc Dự toán ngân quỹ chi phí cho công việc đã thực hiện BCWP (tiếng Anh là Budgeted Cost of Work Performed).

Quản lý giá trị thu được, được triển khai thực hiện ở các dự án lớn hoặc phức tạp, còn bao gồm nhiều tính năng hơn, chẳng hạn như các chỉ số và dự báo về chi phí thực hiện CPI (vượt ngân sách (tức là vượt ngân quỹ, đồng nghĩa bị lỗ) hoặc (dưới ngân quỹ, có lãi) trong vòng ngân quỹ) và tiến độ thực hiện SPI (chậm tiến độ hoặc vượt tiến độ (tức là trước thời hạn)). Tuy nhiên, yêu cầu cơ bản nhất của một hệ thống Quản lý giá trị thu được là nó định lượng được tiến trình thực hiện dự án bằng cách sử dụng giá trị dự kiến PV và giá trị thu được EV.

Theo dõi dự án mà chưa áp dụng kỹ thuật quản lý giá trị thu được

[sửa]

Đây là kỹ thuật theo dõi dự án (Project tracking) theo phương pháp truyền thống, ở đó việc kiểm soát chi phí có vẻ độc lập với việc kiểm soát tiến độ. Ban đầu, phương pháp truyền thống chỉ sử dụng các khái niệm sau:

  • Giá trị dự kiến PV hoặc Dự toán ngân quỹ chi cho công việc theo tiến độ BCWS.
  • Chi phí thực tế AC (Actual Cost) hay Chi phí thực tế cho công việc đã thực hiện ACWP (tiếng Anh là Actual Cost of Work Performed), là hao phí thực tế phải bỏ ra để hoàn thành phần công việc, đã được thực hiện xong, vào đúng thời điểm báo cáo.
  • Chênh lệch chi phí, hay chi phí do lệch kế hoạch CV (Cost Variance). Trong phương pháp kiểm soát chi phí truyền thống, chênh lệch chi phí được quan niệm là hiệu số giữa giá trị kế hoạch và giá trị thực tế (Đây cũng chính là Chênh lệch ngân sách BV (Budget Variance)):
CV1 = BV = PVAC = BCWS - ACWP

Nếu CV1 > 0 thì tốc độ chi phí cho dự án bị chậm (chậm rải ngân). Phương pháp truyền thống không thể cho biết những phần công việc nào hay những công việc nào thực tế đã được hoàn thành từ lượng kinh phí đã được bỏ ra tính tới thời điểm kiểm soát. Chênh lệch chi phí theo phương pháp truyền thống CV1 chưa kể đến phần chênh lệch giá trị kinh phí do việc thay đổi tiến độ thực hiện so với kế hoạch.

Theo dõi dự án cùng với kỹ thuật quản lý giá trị thu được

[sửa]

Giá trị thu được (Earned value, EV)

[sửa]

Giá trị thu được là tổng của các giá trị dự kiến đã được thực hiện xong (hoàn thành), từ khi khởi công dự án đến thời điểm hiện hành (thời điểm theo dõi dự án).

Giá trị thu được thực chất là phần chi phí đã được bỏ ra thực sự còn tồn lại trong phần công việc hay tất cả công việc, mà đã được thực hiện xong tính đến thời điểm báo cáo, mà phần chi phí này mới thực sự làm nên giá trị của phần hay toàn bộ công việc đó. Thường, trong xây dựng công trình, hay các dự án có chi phí được xác định theo định mức thì Giá trị thu được EV được tính bằng tích số giữa khối lượng công việc đã thực sự hoàn thành tính tới thời điểm báo, cáo với định mức hao phí nguồn lực (công lao động và nguyên vật liệu) cho từng công việc.

Ngân quỹ dự kiến tới thời điểm hoàn thành BAC (Budget at completion-BAC): Tổng giá trị dự kiến (PV hoặc BCWS) tính tới thời điểm kết thúc dự án. Nếu một dự án có một Dự phòng phí (Dự trữ quản lý MR-Management Reserve), nó thường được thêm vào Ngân quỹ dự kiến tới thời điểm hoàn thành-BAC.
PV = BAC * % của công việc dự kiến (đạt được theo kế hoạch đến thời điểm theo dõi).
EV = BAC * % của công việc thực tế (đạt được đến thời điểm theo dõi).
Kỹ thuật quản lý giá trị thu được
Chênh lệch chi phí do thay đổi tiến độ SV (SV-Schedule variance)
SV = EVPV = BCWP – BCWS, lớn hơn 0 là tốt (trước thời hạn)
Chỉ số tiến độ thực hiện SPI (SPI-Schedule performance index)
SPI = EV/PV = BCWP/BCWS, lớn hơn 1 là tốt (trước thời hạn, tức là vượt tiến độ)
Chêch lệch chi phí CV (Cost variance) (tức là Tổng chi phí do lệch kế hoạch)
CV = EVAC = BCWP - ACWP, lớn hơn 0 là tốt (trong vòng ngân quỹ)
CV = (EV - PV) + (PV - AC) = SV + CV1 = SV + BV
Chỉ số chi phí thực hiện CPI (Cost Performance Index-CPI)
CPI = EV / AC = BCWP / ACWP, lớn hơn 1 là tốt (trong vòng ngân quỹ)
CPI < 1 có nghĩa là chi phí hoàn tất công việc cao hơn so với kế hoạch (vượt ngân sách, có hại)
CPI = 1 có nghĩa là chi phí hoàn thành công việc đúng kế hoạch (có lợi)
CPI > 1 có nghĩa là chi phí hoàn tất các công việc ít hơn dự kiến (dưới ngân sách, tốt nhưng đôi khi có hại).
Dự toán tại thời điểm hoàn thành EAC (EAC-Estimate at completion)
Dự toán tại thời điểm hoàn thành là kết quả dự tính lại của nhà quản lý, về tổng chi phí của dự án tính tới thời điểm hoàn thành, vào thời điểm theo dõi (hiện tai).
Dự toán đến thời điểm hoàn thành ETC (ETC-estimate to complete) là ước tính để hoàn thành dự án, thì cần phải bỏ thêm bao nhiêu chi phí nữa, bắt đầu từ thời điểm theo dõi (tức thời điểm hiện tại) trở đi.

Chú thích

[sửa]

Tham khảo

[sửa]
Cập nhật tiến độ của đồ án tổ chức thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối vào ngày kiểm tra là ngày thứ 32 (tức là sau 20% thời lượng dự kiến để thực hiện dự án (161 ngày)).
Theo dõi tiến độ (tracking) tiến độ của đồ án tổ chức thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối vào ngày kiểm tra là ngày thứ 32 (tức là sau 20% thời lượng dự kiến để thực hiện dự án (161 ngày)).
Điều chỉnh tiến độ của đồ án tổ chức thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối vào ngày kiểm tra là ngày thứ 32 (tức là sau 20% thời lượng dự kiến để thực hiện dự án (161 ngày)). Thời lượng thực hiện tiến độ mới là 164 ngày.
Bù tiến độ cho các công tác găng bị chậm của đồ án tổ chức thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối vào ngày kiểm tra là ngày thứ 32, bằng cách tăng biên chế nguồn nhân vật lực.
Tiến độ, biểu đồ nhân lực và biểu đồ tiêu thụ xi măng theo kế hoạch ban đầu trước khi thi công dự án.
Tiến độ, biểu đồ nhân lực và biểu đồ tiêu thụ xi măng sau khi cập nhật và điều chỉnh theo thực tế công trường vào ngày kiểm tra tiến độ (ngày thứ 32).
Tiến độ, biểu đồ nhân lực và biểu đồ tiêu thụ xi măng, sau khi bù tiến độ cho các công tác găng bị chậm của đồ án tổ chức thi công nhà nhiều tầng bê tông cốt thép toàn khối vào ngày kiểm tra là ngày thứ 32, bằng cách tăng biên chế nguồn nhân vật lực.
  • Cuốn Tổ chức quản lý thực hiện dự án xây dựng công trình của Bùi Ngọc Toàn, nhà xuất bản Giao thông Vận tải.